Tác giả: Phan Nhật
Nam
Chương 1: Lời Tác Giả
Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống
núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh
vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu
óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng
xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới
mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng
vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi...
Mùa Hè, gió Lào miền Quảng Trị, Thừa Thiên thổi từng luồng, từng chập, đưa “con trốt” chạy lừng lững trên cánh đồng cát chói chang, những đồi hoa sim, hoa dủ dẻ rung rinh bốc khói dưới mặt trời hạ chí. Giòng nước sông Hương, sông Đào, sông Bồ, Mỹ Chánh, Thạch Hãn đục hơn, thẫm màu hơn, lăn tăn từng sợi sóng nhỏ len lỏi khó khăn qua kẽ đá, bãi cát, chầm chậm chảy về phía Tam Giang, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa.
Mùa Hè, những con đường thành nội Huế lốm đốm ánh trăng xuyên
qua cành lá, cô gái chuyển tấm lưng sau lớp tóc dài dày kín, nâng khối tóc xôn
xao lên khỏi chiếc gáy để cơn gió ngắn len qua hàng rào chè xanh thổi khô đi lớp
mồ hôi rịn trên những lông tơ nõn.
Mùa Hè, mưa rào tăm tắp đổ xuống kín trời An Lộc, chập chùng ẩn
hiện những thân cây cao su nhoà vào nền trời xám tối, khu rừng biến thành khối
đêm đen trong khoảng khắc, khối đen chuyển dịch, vẫy vùng ào ạt theo từng cơn lốc
gió... Mưa tan, trời tạnh, ánh trăng lạnh nhô lên từ phương tây, cuối bình
nguyên lồng lộng, núi Bà Đen ấn một nét đen thẫm thần bí trên nền trời xanh ánh
trăng. Và đàn nai bắt đầu tung tăng từ đầu nguồn, cuối lạch... Đàn nai chạy vun
vút qua rừng cây, trên đồng cỏ mượt sóng, chạy và ngừng lại, “bép” mấy tiếng âm
u cùng ánh trăng chập chờn trên sóng cỏ.
Mùa Hè, mùa đẹp đẻ, tươi gắt căng sức sống, ngày ngày nỗ lực
trên mặt nước loáng ánh nắng hay đồng lúa nặng hạt. Hạt ngọc của trời, và người
dân cất cao tiếng hò...
Được mùa chớ phụ môn khoai,
Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng...
Tiếng hò chạy dài trên lúa, theo cơn gió đưa ra đến đầu ghềnh,
cuối cửa sông, tan biến vào cùng sóng nhỏ... Trên mặt nước, con đò xuôi về Thế
Chí, Đại Lộc dọc Phá Tam Giang(*), lại vang dội một giọng hò khác phảng phất
nét tàn tạ bi thảm của hơi Nam Ai thê thiết... Hò... ơ... ai...về...ạ... ạ... Đại...Lộc...ạ...
ạ... ai vượt... ạ..ơ..Kế Môn...
Đã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè
trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén
cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp
kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ,
chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi
đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30
tháng 3 ở Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế
và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất Đỏ... Toàn thể những
địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc
cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của
ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp
ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa
kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài
qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người.
Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng
trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng.
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân(**), cao hơn bão tố,
phá nát hơn hồng thủy.Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ
toàn diện. Mùa Hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày!
Ba sư đoàn bộ binh 304, 308, 324B, cùng sáu trung đoàn địa
phương của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn đặc công và một sư
đoàn pháo nặng 130 ly, cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn 5, 7, 9, tăng cường
sư đoàn Bình Long, hai trung đoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm trợ bởi một sư
đoàn pháo nặng tại mặt trận An Lộc. Hai sư đoàn 320 (Thép) và Sao Vàng, một
trung đoàn chiến xa tấn công vào Tân Cảnh, Kontum; hướng tiến được dọn đường bởi
một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng Ba biên giới Việt-Miên-Lào.
Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những “ngày hè đỏ lửa”, trận cuối cùng để
tìm kiếm kết thúc cho mười năm chiến tranh “giải phóng” cạn lực, sau “tổng-công-kích
thất bại Mậu Thân 1968”.
Quân ta phải chống lại.Chống giữ để tự vệ. Chống trả nơi biên giới
cuối cùng: Tự Do hay Nô Lệ. Sống hoặc Chết. Trận đấu quyết tử và trận chiến cực
điểm. Ba tháng hay 100 ngày chiến trận, những kỷ lục chiến trường thay đổi từng
nấc, từng bậc lớn, từ 2,000 quả đạn cho cứ điểm Charlie, Kontum đến 8,000 quả
cho An Lộc.Bắc quân đi bước tàn nhẫn không nương tay và quân dân Miền Nam đồng
đương cựvới nổ lực cao nhất tại “Điểm đứt hơi - Điểm vỡ của chiến trận”. Chúng
ta đã chiến đấu giữ vững và kiêu hùng chiến thắng.
Hôm nay, ngày đầu tháng 8, cuộc đại chiến đã bước qua tháng thứ
tư, và có cơ kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng quân dân ta cắn răng, ngậm
chặt, hứng hết tai họa, đựng đầy khổ nạn... Chịu thêm nữa cũng thế, đánh thêm nữa
cũng được. Trong nguy nan, Dân tộc biến thành “Thánh chịu nạn”. Dân tộc kiêu
dũng, quật cường, vượt qua, bất chấp tất cả để tồn tại. Ngọn lửa Mùa Hè 1972
nung độ nóng cao nhất trui rèn chúng ta - Người Việt Nam muốn sống đời đáng sống
của Người - Người Tự Do.
Được đi, chứng kiến và dự phần vào ba mặt trận, ba vùng đất quê
hương, người viết không mong gì hơn ghi lại một vài khía cạnh của cuộc chiến -
Cuộc chiến vĩ đại vượt mọi chiến tranh - Mà phải một ủy ban quân sử, trong thời
gian dài mới có khả năng, điều kiện thâu tập và đúc kết toàn thể. Vì chỉ ghi được
biến cố qua một vài khía cạnh, với những người, đơn vị lâm chiến quen thuộc;
người viết xin tạ lỗi do những thiếu sót mà một cá nhân không thể nào tránh khỏi,
và đã phải viết lại từ một khoảng ngày tháng quá gấp rút.
(*): Phá lớn giữa hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, do ba sông Thạch
Hãn, sông Bồ và Sông Hương đổ vào.
(**): 1945; 1968.
Viết lại,
Ngày Quân LựcVNCH,
Tháng 6, 1998.
Mùa Hè, Đất Mỹ.
Chương 2: Charlie
Tên nghe quá lạ
Quả tình nếu không có trận chiến mùa Hè 1972, thì cũng chẳng ai
biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong
chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, “Cải Cách” hay “C,” đỉnh
núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-kơ và Đường 14,
đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị
trấn cực bắc vùng Tây Nguyên. Charlie bị bao vây bởi Căn Cứ 5, Căn Cứ 6 ở phía
bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngõ vào
Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa hè, mùa mưa rào, báo chí hằng ngày
trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống vùng núi
non, cạnh sườn cực tây địa giới nước Nam.
Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa 1971 qua đầu
xuân 1972, Bắc quân vẫn không vượt qua được cửa ngõ hai căn cứ số 5, số 6, thế
nên cộng quân đổi hướng tiến, lòn sâu xuống phía nam hai căn cứ trên để tiếp tục
sự nghiệp “giải phóng” với mục tiêu cố định: Tân Cảnh, cắt Đường 14.
Vòng đai Lữ Đoàn II Nhẩy Dù nằm về phía trái quốc lộ có hình
cánh cung bắt đầu bởi căn cứ Anh Dũng ở cực bắc đến Yankee hay Yên Thế, ngã lần
xuống nam với Charlie, Delta, Hotel, Metro và chót hết là Bắc Ninh, phía đông
Võ Định, nơi đặt bộ chỉ huy lữ đoàn. Vòng đai này có nhiệm vụ che chở phía trái
đường 14, phát hiện sự di chuyển từ đông sang tây của địch xong dùng phi pháo để
tiêu diệt. Đây là lý thuyết chiến thuật,quan niệm hành quân của phía cộng hoà đối
với mục tiêu và hướng tiến của phía cộng sản hằng bao nhiêu năm. Nay địch thay
đổi đường đi và quân ta lập vòng đai nhẩy dù... Yankee, Charlie, Delta bắt đầu
được đặt tên để tiếp nhận định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng. Đoạn
sau kể về trận đánh ở Charlie, trận đánh nhỏ của một tiểu đoàn nhẩy dù, nhưng
điển hình cho toàn thể bi hùng cực độ về người Lính Chiến Việt Nam.
Đến đây,
Người gặp Người
Đường mòn trên đất Lào khi chạy đến vùng Ba Biên Giới phía đông
cao nguyên Boloven chia ra hai nhánh; nhánh thứ nhất từ Chavane đâm thẳng biên
giới Lào-Việt xuyên qua dãy Chu Mon Ray để nhắm vào Darkto; nhánh thứ hai từ Bản
Tasseng qua trại Lệ Khánh, và Kontum là mục tiêu cuối cùng của quan niệm chiến
thuật Bắc quân: Phải chiếm giữ thị trấn cực bắc nầy để làm bàn đạp lần tấn công
Pleiku, rồi từ đây tiến về phiùa đông, xuống bình nguyên tỉnh Bình Định. Gọi
nhánh thứ nhất là nhánh Bắc và nhánh thứ nhì là nhánh Nam. Trong chiến dịch
Xuân-Hè 72 của Mặt Trận B3 (chiến trường Tây Nguyên), đường rẽ phía Bắc được sử
dụng, từ đỉnh 1773 của núi Chu Mon Ray, con đường không thể gọi là một nhánh nhỏ
của “đường mòn ****” nữa, nhưng phải gọi đó là một “Bypass” của một cải lộ tuyến
phẳng phiu trơn láng, chạy ngoằng ngoèo qua các cao độ, đổ xuống những thung
lũng hun hút của dãy Big Mama Mountain rồi bò theo hướng đông đến đỉnh Kngok
Kon Kring. Đỉnh núi này cao quá, con đường phải quẹo qua trái, đi lên cao độ
960 và tạm dừng lại. Dừng lại, vì phía đông, hướng trước mặt chỉ cách mười cây
số, con sông Pô-Kơ dậy sóng... Con sông ầm đổ qua ghè đá, ào ào đi giữa rừng
xanh núi đỏ. Bên kia sông, Quốc Lộ 14 chỉ khoảng trên dưới sáu cây số và đầu
con đường là Tân Cảnh, mục tiêu của bao chiến dịch.Từ ngày chiến tranh “giải
phóng” bùng nổ.
Đây rồi, “...nồi cơm điện National” đây!! Tân Cảnh hấp dẫn ngon
lành như cô gái yếu đuối hớ hênh thụ động nằm dưới thung lũng bát ngát ở đằng
kia. Bộ đội ta tiến lên! Nhưng không được nữa, con đường đã bị dừng lại, và bộ
đội ta dù được “tùng thiết”, dù được đại pháo “dọn đường” cũng phải dừng lại,
vì đỉnh 960 chính là bãi đáp C, là cứ điểm Charlie và Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù đã
xuống LZ (*) này từ ngày 2-4. Con cháu Bác và Đảng phải ngừng lại bố trí trận địa.Nỗ
lực kinh khiếp kéo dài trên năm mươi cây số đường núi, từ ngả rẽ đất Lào phải dừng
lại vì chạm phải “sức người”.Ở đây - Người đã gặp nhau.
Vực thấp, đỉnh cao, bạt núi, xẻ đèo, những con người cuồng tín
và tội nghiệp của miền Bắc đã làm được tất cả. Con đường núi của Tướng Stiwelle
từ Miến Điện đến Trùng Khánh, Trung Quốc năm 1945 đã là một sự khủng khiếp - Đường
xuyên sơn vạn dậm, dài thật dài, quanh co khúc khuỷu lớp lớp giữa núi rừng nhiệt
đới, con đường nổi tiếng đúng như tầm vóc và giá trị của nó - Cả nước Tầu sống
bám vào cái ống cứu nguy thậm thượt hun hút này. Vào thời điểm đầu thế chiến,
nước Tầu, đồng minh “tuyệt vời cần thiết” của người Mỹ dễ thương cần phải sống
để chống đỡ trục Bá Linh - Đông Kinh. Con đường quả đáng tiền và đáng sợ. Nhưng
đường này làm bằng máy, dưới sự yểm trợ và che chở của các “Ong Biển” hảo hạng,
những người lính công binh chiến đấu hãnh diện của Mỹ Quốc giàu sang hùng mạnh.
Năm mươi cây số đường xuyên sơn của “bộ đội ta” thì khác hẳn. Bộ đội đào bằng
tay trong đêm tối. Bộ đội lấp hố dưới tấm lưới lửa thép của B52, trên những giải
thảm tử thần dầy lềnh bom bi CBU. Sức người và lòng cuồng tín ghê gớm đã vượt
qua giới hạn. Đấy không còn là người với thịt da biết mệt mỏi đau đớn, cũng
không là người với trí óc biết nguy biến và sợ hãi. Bắc quân, khối người vô tri
tội nghiệp chìm đắm trong ảo tưởng và gian nguy triền miên. Con đường sạn đạo
vào đất Ba Thục tân thời được hoàn thành từng phân từng thước... Bắc quân theo
đó đi về Đông.
Nhưng đến đây, ở cao độ 960, người lính Bắc Việt không tiến được
nữa vì đã gặp “người”- Người rất bình thường và giản dị. Người biết lo âu, sợ
nguy biến. Người có ước mơ và ham muốn vụn vặt. Những người không thần thánh
hóa lãnh tụ và tin tưởng Thiên Chúa cũng chỉ là bạn tâm tình. Nhưng đó cũng là
những người lính đánh giặc “tới” nhất của Quân Lực Miền Nam, chỉ huy bởi những
sĩ quan miệt mài trên dưới mười năm trận địa. Những sĩ quan biết đánh hơi rất
chính xác khả năng và ý định của đối phương. Bắc quân dừng lại giữa đường, ảo
tưởng bị công phá và tan vỡ- Họ gặp lính Nhẩy Dù Việt Nam.
Chương 3: Trận Đánh Trên Cao Điểm
Anh Năm (Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng 11 Dù) bố
trí quân “hết sẩy”. Cứ điểm C hay Charlie chính thống, cao độ 960 giao cho “thằng
1”, đại đội 1 do Thinh, trung uý khoá 25 Thủ Đức chỉ huy. Thinh trẻ tuổi đời lẫn
tuổi lính. Thinh có vẻ yếu trước mắt mọi người vì Thinh...đẹp trai! Đã đẹp
trai, tốt mã thì đánh giặc hơi yếu. Chẳng hiểu sao phần đông là như thế?! Những
anh có vẻ tài tử, ăn nói ngon lành, rỗn rãng thường hay lạnh cẳng... Nhưng nghĩ
cho kỹ thì cũngcông bằng thôi, con người mà, được cái nầy thì mất cái kia.
Nhưng anh Năm dưới cái nhìn sắc sảo của con ó, kèm theo “suy tư “ của phó Mễ đã
chọn Thinh để giữ Charlie vì cả hai người chỉ huy đều chắc một điều: Đây là một
tay “dur”, loại liều, thứ “kép trẻ đang lên” của trận địa. Thinh được lãnh hãnh
diện “Nhất kiếm trấn ãi” và những ngày sau Thinh đã chứng tỏ, người chỉ huy
mình đã không nhầm lẫn. Phía bắc của C giao cho đại đội 3, do Hùng “mập” làm đại
đội trưởng. Hùng chỉ là đại uý thôi, nhưng “người” có đủ tác phong và khả năng
để “tiến” xa hơn. Vì “người” cũng là tay văn nghệ, “lãnh tụ” sinh viên, có kích
thước cơ thể và tính chất của tướng Thắng, ông “tướng sạch nhất “ của quân đội
và cũng là ông tướng học giỏi nhất!! Nhưng giờ nầy Hùng chỉ là “simple captain”
nên cam phận dẫn quân lên trấn giữa phía bắc Charlie, căng mìn bẩy, đào hầm chờ
con cháu Bác, những chiến sĩ Điện Biên... Điện Biên cái con bà nhà nó, lúc xưa
bố nó đánh Điện Biên chứ đâu phải nó hôm nay, trong họ tôi có ông chú làm tiểu
đoàn trưởng đánh cái Điện Biên khỉ gió kia... Bây giờ tụi nó là cái chó gì..Chẳng
nhẻ tôi là lính Tây cà-lồ sao?!! . Phần còn lại tiểu đoàn lên cao điểm 1020 hay
C2. Anh Năm bảo Mễ:
- Mình giữ hột lạc (cao độ bản đồ thường tượng hình hột lạc) này
vì phiá nam tao chắc toàn tụi nó, lệnh hành quân bắt buộc mình phải giữ cửa thằng
Charlie. Kẹt lắm, trước sau gì tụi nó cũng phải chiếm thằng Charlie nầy, và
mình thì chỉ việc “thủ”?! Bố khỉ, thôi đã xuống đây thì phải giữ chứ biết làm
sao, hôm đi họp hành quân được nhận tin tình báo từ quân đoàn, sư đoàn 320 (Sư
đoàn Điện Biên cộng sản) đã rút về tây, vào đất Lào!!
- Anh Năm yên chí, mình “hơn tiền “ tụi nó!! Mễ chắc giọng.
Nhưng thật ra tất cả chỉ là những câu nói bề mặt, phần trong, đằng
sau lý luận và phân tích, do những kinh nghiệm và nhạy cảm riêng về chiến trường,
mọi người đều có chung ý nghĩ: Xong rồi, mình đã lọt bẫy!! Bởi, chiến tranh miền
núi là chiến trường giữa những cao điểm; đành rằng C và C2 cũng là những cao độ,
nhưng 960 và 1020 làm sao chế ngự được những đỉnh 1773, 1274, 1512 của rặng Big
Mama Mountain và tiếp theo một dãy đường đỉnh nam rặng Chu To Sang... Và pháo
binh của tụi nó. Pháo và kèm theo một “rừng cối”, gồm một hệ thốngsúng cối có
đường kính từ 80 ly trở lên hoặc sơn pháo bắn thẳng... Sự thông minh và tinh tế
về chiến trường của toàn bộ sĩ quan tiểu đoàn ngừng lại ở đây. Họ không dám
nghĩ thêm. Phần lệnh hành quân đã giao cho họ một đỉnh núi trơ trọi để sửa soạn
vinh quang cùng cái chết. Họ chỉ có một đỉnh Charlie đang hừng hực bốc hơi dưới
nắng hè hạ chí trời Tây Nguyên. Định mệnh, sức mạnh khắc nghiệt khốn kiếp đã bắt
phải như thế. Tiểu đoàn 11 Nhẩy Dù không còn khả năng chọn lựa. Như cuối cùng
cái chết thế nào rồi cũng phải tới cho dù người lính hằng chiến đấu quyết liệt
bao nhiêu.
Ngày 6, cứ điểm Delta ở phía Nam bị đánh. Đúng chiến thuật, lính
ông Giáp tưới xuống một trận mưa pháo, cối và hoả tiễn. Đêm thật dài, người ở
Charlie chờ đợi và theo dõi...Tiên sư, tụi thằng Mạnh (Tiểu đoàn 2 Dù giữ
Delta) bị rồi.. Xem thử tụi nó đánh đấm ra sao? Bộ chỉ huy tiều đoàn 11 Dù
chong mắt vào loa khuếch đại máy truyền tin để nghe kết quả... Trời sáng dần,
Delta lấy lại được, quân ta thắng. Anh Năm nhìn Mễ:
- Mầy thấy đấy, chúng sẽ chơi với mình cũng với cách nầy, chúng
sẽ lấy kinh nghiệm ở Delta để “dứt điểm” mình. Toàn thể bộ chỉ huy im lặng. Mọi
người đều có ý nghĩ chung. Bao giờ đến lượt mình? Baogiờ?
Nhưng anh Năm không thụ động, con hổ dù bị nhốt trong chuồng vẫn
còn nguyên phong độ, uy lực riêng. Không cần phải luận lý lâu lắc. Đây, quyết định
của anh:
- Mễ, mầy đem hai thằng 2 và 4 (Đại đội 2 và 4) lên chiếm cho
tao cái nầy. Anh chỉ vào một cao điểm ở nam C2. Nếu chiếm được mình sẽ cho một
thằng lên giữ nó, mình đã bị phân tán mỏng thì cho mỏng luôn, càng mỏng càng tốt,
tránh được pháo, đỡ bị tụi nó vây... Mầy nghe chưa?
Mễ gật đầu, anh năm thấy, nó cũng chung ý nghĩ. Đã vào bẩy thì
tìm cách thoát ra, một đỉnh núi không thể là vị trí cố thủ. Tôi nghe anh rõ. Mễ
trả lời. Trời vừa sáng, Mễ quay bảo Hải, sĩ quan trưởng ban 3( Ban hành quân),
- Ông cho hai thằng 2, 4 chuẩn bị, mình đi làm ăn. Không thể ngồi
đợi tụi nó tới đây rúc rỉa, cấu xé được...
Ba đợt xung phong không thành, Bắc quân quả không dại dột bỏ vị
trí rất nhiều ưu điểm; cũng bởi sườn quá dốc, quân ta dù can trường, dùng tay lẫn
chân cũng không thể nào “chạy” qua được hàng lưới lửa của 12ly7 (đại liên phòng
không hoặc chống chiến xa) hoặc sơn pháo 75 ly bắn thẳng!!
- Cho thằng Mễ lui! Anh Năm bảo Hải. Trán cau lại, anh nhìn xuống
đất, gỡ kính, chớp mắt, nói nhỏ sau tiếng chặc lưỡi : Mình bị một con dao đâm
lút cán vào lưng!!
Những ngày sau tương đối bình yên, hằng ngày các đại đội tung
các đứa con ra xa lục soát, chỉ trừ đườngvề phía nam, nơi tụi “khốn nạn” đang
chui trong núi. Làm sao”móc” chúng ra được? Bom thả xuống hằng ngày, nhưng chỉ
là bom miểng... Mẹ...hầm tụi nó đào theo chữ U hoặc con c... gì gì thì làm sao
bom “lách“ vào được?! Anh Năm đi lại trên đỉnh đồi nhìn bốn hướng trùng trùng
và xa xa trong ánh nắng về phiá Tây, cuối con đường trong vùng núi Lớn có lớp bụi
mù...
...Xe chúng nó! Xe chúng nó! Tăng hay GMC của tụi nó...Bom!!
Bom... Gọi lữ đoàn Hải,
- Để em gọi, nhưng Molotova chứ đâu phải GMC, anh Năm!
- Thì đấy là GMC của Nga, mầy biết mẹ gì!!
Đàn em thì bao giờ cũng ‘chẳng biết mẹ” gì. Anh Năm vốn hay phủ
đầu như vậy. Nhưng đấy chỉ là một cách nói, bởi anh rõ ưu điểm của từng người
như một máy ghi âm cực tốt. Máy bay ta ào tới, con đĩ “Lan 19” lượn một vòng
trên vùng chỉ định, cho “ra” một trái khói... Khu trục nhào xuống tiếp theo,
bom nổ dâng cột khói lên cao.
- Tiên sư, bom ném thì hay nhưng sợ tụi nó trốn rồi, nó lại
không trốn luôn mà quay trở lui về phía mình thì bỏ mẹ...
Sau cơn bom, khói bay lên không trung, qua bóng nắng đằng xa
thung lũng lại có lớp bụi mới bồi từng chập...
...Tăng! Tăng...tăng nữa, đông quá, tụi nó chưa bị... Tiên sư,
nó trốn ở đâu nhỉ? Trên đồi cao, anh Năm đứng im như con báo nhìn lũ sài lang
tiến tới hằng hằng lớp lớp. Làm gì được bây giờ... Không lẽ xin thêm phi tuần
khu trục?
Ngày 11, trận địa pháo bắt đầu. Pháo thật sự của 122 và 130 ly
ào ào trútxuống C1, C 2, C3...Không phải từng trái, nhưng từng chùm, từng loạt...
Một, hai, ba....Hải cố gắng đếm,
- Mầy làm gì thế, điên sao em?! Anh Năm vừa hỏi vừa cười,
- Mình gắng đếm để báo cáo cho chính xác!!
- Thế thì mầy phải đếm hàng chục một, một chục, hai chục... Tụi
nó đâu “đi tiền” lẽ!!
- Tụi nó “chơi” tôi!Thinh ở Charlie báo cáo qua máy.
- Mầy giữ nỗi không? Anh Năm cướp ống liên hợp máy truyền tin
trên tay Hải.
-Trình “ đích thân”, suya là tôi giữ được, xin cho pháo mình nổ
gần tôi thêm chút nữa...
Pháo căn cứ hoả lực Võ Định (Nơi đặt bộ chỉ huy lữ đoàn) bắn tới
tới trước, rơi xuống sườn phía đông Charlie... Đạn 105 và 155 nổ từng trái một,
khói bụi tung lên trông rõ.
... Mẹ, bắn gì “quí phái” vậy, nó tấn công chính diện ở phía
tây, mầy xin pháo căn cứ 5 bắn xuống dễ ăn hơn!!
Hải bốc ba, bốn cái máy truyền tin một lúc, năm ngón tay chuyên
“xoa”, “nặn” di chuyển trên giàn ống liên hợp lẹ như chớp... Thằng nầy gọi là
“Hải khều” cũng phải, nó khều cái gì đúng cái đó!! Anh Năm phịa câu khôi hài
đúng lúc, Hảinheo mắt cười thích chí.
Pháo căn cứ 5, và hai căn cứ Sơn Tây, Mạnh Mẽ cùng ào xuống, vây
quanh Charlie vòng đai lửa. Đấy! Đấy...phải như thế mới được. Anh Năm gật gù
tán dương, đồng lúc tiếng Thinh vang vang qua loa khuyếch đại,
- Trình đích thân cứ cho gà nó “đá” như thế, em đánh tụi nó de
ra như đuổi con nít... Tốt! tốt...cho gần hơn năm mươi thước nửa thì tốt hơn,
ngay trên tuyến em cũng được!!
Bốn mươi lăm phút sau, pháo im bặt, cả ta lẫn của địch. Anh Năm
lên hầm chong ống nhòm xem đại đội 1 bên đồi C lục soát chiến trường. Súng và
xác bộ đội cộng sản nằm lềnh kênh chật kín đồi đất đỏ.
- Nó đánh thằng 1 là để dợt chơi, cú dứt sẽ với mình,
- Trung tá, trên họ không tin nó pháo mình bằng 130 ly?! Hải báo
cáo, giọng mỉa mai.
- Gì? Anh Năm chỉ gắt được một tiếng. Như thế là người đang nổi
cáu. Trường hợp nầy vốn rất ít, vì anh vốn trầm tỉnh, sự giận chỉ đến sau chót,
khi dã cuối cùng chịu đựng.
- “Họ” bảo mầy sao? Chữ “họ” được gằn xuống khinh thị!!
- “Họ” bảo mình kiếm mảnh 130 để gởi về!! Chữ “họ” thứ hai qua
cách nói của Hảicũng đắng cay không kém.
- Đến đây mà kiếm, muốn thấy súng của chúng thì cũng đến đây,
tao như thế nầy không lẻ la hoảng, báo cáo láo sao?! Anh đá một hòn đất bay
tung... Mẹ, nó xài toàn đạn delay (*) mới thế nầy đây! Câu nói ngắn đau đớn của
niềm phẫn nộ tuyệt vọng.
- Cho sửa sang hầm hố, ngày mai gì tụi nó cũng “chơi “ lại. Trước
khi bước đi, anh quay sang Hải, dặn thêm: Mầy trình với lữđoàn, để nói với quân
đoàn, đây là đạn 130 ly thật. 130 ly xuyên phá. Mầy bảo tao nói thế.
(*)Đạn đầu nổ chậm, dùng xuyên phá công sự
Đêm xuống thật mau, đêm của núi rừng thẩm màu và đầy bóng tối đe
doạ. Sao trên cao lấp lánh, sương mù đùn lớp... Đêm như có hình khối chuyển dịch.
đêm chất chứa che dấu hàng ngàn sinh vật đang bò dần vào cứ điểm. Đêm cũng vô
cùng im lặng, nhưng nỗi im lặng kinh dị như khoảng cách từ khi viên đạn ra khỏi
nòng súng và sắp sửa “chui” xuống mái hầm, hố phòng thủ. Trong bóng tối, mấy
trăm con người trên ba cứ điểm dựng đứng đôi mắt xuyên thủng qua bóng tối. Và
chờ. Ngủ chỉ là khoảng cách ngắn để đối mắt khép lại, đầu gục xuống, xong giật
mình tỉnh giấc với nỗi “lo lắng” như vừa qua cơn mê thiếp dài, và trong khoảng
khắc “dài thăm thẳm chóng vánh” nầy, hình như quân địch đã tiến sát gần hơn!!
Tiểu đoàn 11 Dù qua đêm trong chập chờn sắc buốt với cảm giác viên đạn vô hình
đang bay thẳng vào mặt. Có ráng hồng bên kia núi... Ngày đã tới. Ánh sáng đẹp
âm vang hân hoan, như ân huệ nồng nàn vừa được sống sót qua thêm một đêm.
Chương 4: Ngày Cuối Của Một Người
Ngày 12 bắt đầu. Lính cong lưng xuống trên đất để đào thêm độ
sâu... Càng sâu càng tốt. Tỷ lệ được sống sót là độ sâu của lớp đất đá vô tri nầy.
Đất được đổ lên mái. Con người chui lọt vào giữa đất đá, tội nghiệp và thụ động
như con sâu ẩn mình trong tổ. Pháo sẽ đến lúc nào? Nổ ở đâu? Câu hỏi âm thầm
vang vang trong đầu hàng trăm con người. Trên ba cứ điểm im lặng chỉ loáng
thoáng bay những sợi khói mỏng manh. Khói của cơn pháo cuối cùng chưa dứt độ
nóngtrong đất. Chỉ tiếng cuốc đục đều đều vào đất đá như hơi thở bị ngắt khoảng.
Trong hầm chỉ huy, anh Năm chỉ những điểm ước tính Bắc quân đặt
súng,
- Chắc chắn chúng chôn súng ở đây... Anh chỉ ngón tay trên các đỉnh
Kngok Toim, Kngok Im Derong. Toàn là cao độ trên 1500 thước, ở đấy, tụi nó thấy
mình rõ như ở đây mình thấy thằng 1 dưới Charlie. Ngày hôm qua nó bắn mình
không trật một phát ra ngoài. Mầy xin mấy phi tuần để sẵn, có gì mình dội xuống
liền. Dội ngay trên tuyến mình cũng được. Xong, ông Mễ và Bác sĩ Liệu về hầm
đi, đừng tụ vào một chỗ.
Mễ và Liệu đứng dậy,
- Chào trung tá. Anh Năm gật đầu. Hình như anh gượng cười. Có điều
gì khó khăn sắp xẩy ra? Không ai biết, nhưng âm tiếng mọi người có điều gì
khang khác, buồn buồn... Tai ương nguy biến chực sẵn đâu đây đã làm người hoá
nên tê liệt, rã rời. Cũng thật do chờ đợi quá căng thẳng giữa vũng tối, dầy
bóng đêm.
- Thôi, tôi về, có gì tôi chạy qua với anh. Hải không để ý tiếng
“anh” bất bình thường nói trong hơi thở hụt. Người chỉ huy đứng dậy, Hải tiển
anh ra cửa hầm. Anh bước lên nặng nề, chậm chậm, lưng cong xuống. Anh đi trên đất
đá đào xới với dáng dấp của con hổ bị thương khi trở lại, rừng xưa nay đã hoang
tàn.
11 giờ 5 phút, pháo lại bắt đầu... C2 bị nặng hơn C và C1. Theo
thói quen, Hải nhẫm tính tính từng chục trái một; hắn hét lớn báo cáo với lữ
đoàn,
- Tôi và hai đứa con củng bị một lượt, toạ độ đặt súng ở yếu tố
cũ... Không ước lượng được, hai trăm trái rồi... tụi nó đang tấn công C!!
Bắc quân từ Tây và Tây-Nam đồng nhào lên C, những người ở C2
nhìnxuống sườn đồi lúc nhúc những bóng áo vàng đục di chuyển chậm chạp, lui tới...
-Nó đánh giặc gì kỳ vậy? Người hạ sĩ quan hành quân hỏi Hải.
-Tụi nó ”điên”, chẳng phải “điện biên” mẹ gì cả,đéo thấy ai ngu
bằng tụi nó,
Lính đại đội Thinh nhỏm dậy khỏi giao thông hào, súng bắn không
cần nhắm, lựu đạn ném không cần lấy đà. Ta và địch cách nhau không đầy một tầm
lựu đạn. C2 vẫn im lìm dưới trận mưa đạn và lửa... Tám trăm trái rồi... Chưa đầy
một tiếng, nó đã nổ hơn tám bớp!! Hải ngồi bẹp trên đất, nón sắc chụp xuống, lẫm
bẩm những câu vô nghĩa với chính mình. Qua máy truyền tin nội bộ (giữa các đại
đội và ban hành quân tiểu đoàn), tiếng chuyển lệnh của Thinh nghe chững chạc, tự
tin, ”... đợi tụi nó đến gần rồi hẳn bắn, nó chỉ là lính con nít, bây là nhẩy
dù mà để thua là yếu lắm đó...”. Hải cố mỉm cười nhưng nụ cười không thành dạng.
Pháo vẫn nổ như cơn địa chấn như xoay chiếc hầm nghiêng ngã... Tụi nó đòi dứt đứa
con của mình... Ờ mà sao chẳng nghe anh Năm gọi qua gì hết... Có chuyện gì
không nhỉ. Trí não Hải đã cứng trơ. Hắn không nghĩ được điều gì hơn.
Mễ không buồn nghĩ đến số vũ khí của hai đại đội 1 và 3 tịch thu
được. Anh Năm chết, là tiểu đoàn phó, Mễ tự động lên thay thế. Trách nhiệm quá
nặng với tình thế kẹt cứng. Và anh Năm, người đàn anh thân mến từ bao nhiêu
năm, gian nguy, khổ nhọc bao ngày dài cùng chia sớt. Vĩnh biệt anh, hầm bị ba
trái cực mạnh, chịu làm sao thấu... Sao cuộc đời chỉ dành cho anh toàn hoạn nạn.
Hoạn nạn của ba mươi năm ở đời chưa đủ sao?
Mễ, Hải, Liệu nhìn nhau... Trời chiều cao nguyên sẫm bóng nắng.
Đêm sắp đến. Đêm với chiếc bẫy sập xuống từ từ, lũ người tuyệt vọng nhìn thấy
những tia gân máu đỏ đục loáng ánh sáng phẫn nộ hấp hối trong mắt nhau.
Liệu cho lệnh những người lính y tá đào đất lên, mang anh ra ánh
sáng. ngoài vết thương ở tim, người anh tím bầm từng chỗ, chiếc kính vỡ, mắt nhắm,
miệng hơi mở để lộ ra những răng cửa. Hải ngồi xuống, rờ vào xác anh còn ấm, đập
mấy cái lên áo. Lớp bụi mờ đục bay bay...
- Để tôi rửa cho ông ấy,
Liệu ngồi xuống với bông và cồn. Thi thể anh trầm trầm dưới nắng
Tây Nguyên đẫm màu vàng rực. Hết. Mười hai năm chiến trận chấm dứt phút nầy đây
trên cao độ 1020. Trông về bốn hướng chập chùng đồi cao tiếp núi thẩm.
Trường Sơn ác độc nhận thêm một hình hài.
Chương 5: Đốt Charlie
Bây giờ là buổi chiều. Buổi chiều với nắng vàng và gió lộng.
Không còn tiếng nổ trong không gian, ba mỏm núi bốc những sợi khói nhỏ, mờ mờ
hơi nóng. Nóng không phải hơi nắng mặt trời nhưng do âm ỉ của thuốc súng chưa kịp
tan, còn lẫn khuất nơi cây cỏ, đất cát.
- Thiếu tá... Hải gọi nhỏ Mễ. Lúc riêng rẽ, ít khi hai người gọi
nhau bằng cấp bậc, nhưng bây giờ, tình hình đã khác, trách nhiệm và bổn phận
quá đổi nặng nề, thêm xúc động trong lòng qua cái chết của người chỉ huy. Hải
nhắc nhở Mễ,
Thiếu tá, tổng kết là mình chết 20, 40 bị thương cần di tản,
Mễ gật đầu, đưa mắt nhìn hỏi Liệu...
- Đúng vậy! Liệu đáp nhỏ. Anh toubib hết đồ nghề, nhìn xuống xác
anh Năm, như một cách lẫn tránh.
- Dạ, có ông Hùng muốn nói chuyện với thiếu tá. người lính truyền
tin đưa ống liên hợp cho Mễ.
Tiếng Hùng ở C1, vọng trong máy: Trình Mê Linh (danh hiệu truyền
tin của Mễ), ở tôi thì không có gì, nhưng từ sáng tới giờ sao chẳng nghe 008
(Tiểu đoàn trưởng) nói gì với tôi hết... Giọng Hùng mang vẻ trách móv xa vắng, ắt
hẳn hắn đã linh cảm được tai nạn xảy ra. Mễ nhìn xuống xác anh Năm, đôi mắt đỏ
mệt mỏi chớp chớp, hình như có giọt nước mắt lưng tròng,
- 008 đã bắt tay với ông Phan (Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Dù,
đã tử trận Hạ Lào, 1971), biết thế thôi, đừng nói cho ai hay...
- Dạ, tôi nghe rõ Mê Linh. Hùng không còn hơi sức để hỏi gì
thêm.
Súng lại nổ dưới Charlie. “Cất” anh Năm lại, đừng cho lính biết.
Tất cả ra giao thông hào. Mễ ra lệnh ngắn. Lời nói đanh cứng, dứt khoát. Trong
ráng chiều, những người lính ở C1 và C 2 chăm chú theo dỏi trận đánh nơi cao độ
C.
Bắt đầu, cối và sơn pháo từ những cao độ phía Tây bắn từng nhịp
bốn trái một vào căn cứ, xong bộ binh sư đoàn Điện Biên từ hai hướng Tây,
Tây-Nam xếp hàng như đi điễn hành tiến vào...
- Đúng là tụi nó điên rồi, không điều động, ẩn núp gì cả... điện
biên cái con c...!! Lính ở C1 và C2 dồng đứng dậy khỏi giao thông hào chơi trò
chơi mới,
- Mầy bắn vào cái hố có bốn thằng núp dưới kia, nếu trật thì để
tao. Hai người lính đại đội 112 thách nhau dùng súng phóng lựu M 79 và hoả tiễn
cầm tay M72 từ đồi cao bắn xuống. Trái đạn bay đi khoảng ngắn, đất bụi bay
lên... Bốn thân xác phơi trần trụi, vật vã, lăn lóc. Người lính nhỏMiền Bắc đi
giải phóng ai đây; trong phút chốc họ đã trở nên thành những bia thịt sống thậm
vô ích và chết với gía qua rẻ.
Cuộc tấn công vào cứ điểm C kéo dài năm đợt. Lính Thinh đánh tỉnh
táo, chắc chắn. Nhưng bỗng nhiên, Mễ có quyết định: Rút nó về, nhỡ tối nay, nó
hết đạn thì sao...
Hải gọi liền máy, bảo Thinh,
- 401 ( Thinh) đây 06 (Hải), anh xếp va-ly lại, nhớ mang theo mấy
thằng rách áo, về ở với bố mẹ...
- Vâng, vâng, tôi nghe rõ, tôi cũng có ý định đó vì kẹo gần hết,
nhưng sợ 008
và 007 (Tiểu đoàn trưởng và phó) hiểu lầm. Tội nghiệp chưa, đến
giờ nầy, Thinh vẫn không biết người anh cả của tiểu đoàn đã đi khuất. Trong âm
nói của Thinh vang động mối hân hoan vui sướng” về với bố mẹ”. Thinh đâu tiên
đoán được đến lượt mình ở ngày mai?!
Đại đội 111 rút được về C2, năm giờ chiều, trời chỉcòn chút ráng
đỏ, gió lạnh... Đỉnh Charlie trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn. Và trong hoang
vu hấp hối của cỏ cây, hằng trăm người lính Bắc Việt, “những chiến sĩ Điện Biên
của sư đoàn Thép, đơn vị vang danh bốn chiều lục địa, những người lính Quân đội
Nhân Dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”, tất cả đồng nhào lên Charlie một
lượt... Những “bàn chân gang thép mang linh hồn vũ bảo vào Nam giải phóng, đánh
đuổi đế quốc Mỹ xâm lược”đồng chạy mau hơn, nhanh hơn... Để cùng lăn lộn, giành
giựt trên vùng đất vỡ nát, lầy lụa xác người và hơi thuốc đạn. Như một cơn đồng
nhập quẩn trí, tất cả đồng vất bỏ vũ khi, dùng tay trần cào, xới, bới, móc...
Đám lính đói sưđoàn Thép kiếm thức ăn. Họ tìm gạo sấy, thịt hộp và C Ration. Cuối
đường giải phóng, những “chiến sĩ Điện Biên anh hùng” tìm ra “vinh quang đích
thực” nơi những hộp thức ăn chế tạo tại Mỹ, giữa đám xác người Miền Nam họ vừa
tàn sát.
... Bom!! Bom!! Đốt cháy tụi nó hết!! Mễ nói như thét,
- Có ngay! Hải “khều” ngay ba phi tuần Napalm; toán lính Bắc định
tháo chạy, nhưng không kịp nữa. Theo một hướng Tây-Đông chính xác, ba chiếc
Skyraider cùng chúi xuống một lúc... Lửa lồng lộng, lửa vàng đỏ trộn khói đen
cuộn lên lớp lớp... Trong cỏ cây cháy khét có mùi thịt. Thịt của người và thịt
của thức ăn. Lính cộng sản sưđoàn Điện Biên Phủ vinh quangchết trên mục tiêu vừa
chiếm lĩõnh - Những hộp thịt thức ăn chế tạo tại Mỹ.
Ngày 13 tháng Tư, Mễ cho đại đội 112 xuống chiếm lại C. Lính của
Hùng “móm” vừa từ trên “hột lạc” đổ xuống bị bật lại ngay bởi một hàng rào của
cối 60, 82 và sơn pháo 75 ly bắn thẳng từ ngọn đồi phía Tây. Bộ chỉ huy tiểu
đoàn không một chút do dự: Cho thằng 2 về, tụi nó hận mình về vụ hôm qua. Lên
phía Bắc không được, Mễ thử bung quân ra hướng Đông để tìm bãi đáp. Phải có một
bãi đáp bất cứ gia nào, thưlng binh, người chết, xác anh Năm...Tât cả cần phải
di tản. Sự hiện diện của những đau đớn nầy làm lòng nặng xuống, cũng có thể gây
nên tâm lý phục hận phẫn nộ, nhưng cũng là lần suy sụp lo sợ. Phải di tản gấp số
thương binh. Mễ nói với Thinh:
- Ông gắng ra chỗ nầy, (một trãng trống cách C2 khoảng ba trăm
thước về hướng Đông), kiếm được LZ( bãi đáp trực thăng), di tản hết thương binh
và người chết, tụi còn lại mới yên lòng được. Đừng để cho lính có cảm giác bị bỏ
rơi, tinh thần họ giản dị, dễ xúc động. Hơn nữa, mình hết đạn và nước uống.
Nhé, ông gắng ra cho được.
- Dạ, thiếu tá để tôi.
Thinh can trường như Triệu Tử Long, dẫn đại đội chỉ trên khoảng
bốn mươi người rời căn cứ. Cái trãng trống kia rồi, 50, 40, 30...Gắng chút nữa,
mình có nước uống!! Thinh thúc dục người lính. Nhưng không thể được. Bắc quân bắt
đầu khai hoả, bốn phía cùng nổ từ các cao điểm chung quanh. Nguy hiểm hơn, địch
cắt đứt đường về, quân ở C2 cố ra đón bị chận lại, không thể dùng một thứ vũ
khí nào khác ngoài lựu đạn. tiến không được, thối lui không xong, trên đầu bị
vây chụp bởi đạn sơn pháo từ dãy cao điểm phiá Nam dội xuống. Thinh ngã chết. Chỉ
còn con đừng nầy cho người lính trẻ. Thinh chết giữa trời, trên đồi cháy. Viên
đạn cuối cùng vừa bắn ra. Bóng Bắc quân vây kín.Trái lựu đạn còn lại cũng vừa
ném... Người sĩ quan tuổi quá hai mươi ngã xuống bởi chục nòng súng xả đạn vào.
Chuẩn uý Ba nhào đến ôm xác Thinh, hứng nốt những viên đạn còn lại.
Mễ nổi điên trong giao thông hào, gọimáy liên lạc với đại đội
111,
- Ở đấy còn có ai?
- Có tôi. Khánh, sĩ quan liên lạc tiền sát pháo binh đáp mau.
- Anh coi đại đội, cố dẫn về lại tôi, có thằng 4 ra đón.
- Tôi nghe đích thân rõ. Người sĩ quan pháo binh gom quân làm một
mũi dài. ...Đánh!! Để tao đi đầu, lựu đạn mở hết kíp ra. Trung sĩ Lung, người hạ
sĩ quan thâm niên nhất dẫn đầu toán quân, xung trận như mũi tên lửa. Đường về
có được rồi, bắn bắn che nhau, Lung về chót... Nhưng còn hai ông thầy!! Lung cố
chạy ngược trở lại nơi xác của Thinh và Ba. Một loạt đạn vô tình nào đó... Chầm
chậm Lung ngã xuống. Ba xác chết chồng lên nhau bất động.
Hai giờ chiều, Bắc quân mở cuộc tấn công mới, cuộc tấn công công
khai, nhắm thẳng vào C2, căn cứ chính.
- Tụi nó dứt mình. Được, mầy “điện biên” tao “nhẩy dù”, xem ai
hơn ai... Tất cả ai ngồi được, kể cả bị thương, ra hết giao thông hào, thằng
nào kêu la khóc lóc, tao bắn chết. Chính tao bắn... tụi mầy để thua, tao
bombing vào đây. Chết, chết tất cả!! Mễ gào lên, xong ngất xỉu.
Chương 6: Đốt Charlie ( 2)
Liệu nói nhỏ, thì thầm sát tai Mễ: Tim ông nó mệt rồi, đừng
“gonfler” quá, ông chết luôn, hết người chỉ huy.
Lính sư đoàn Điện Biên thổi kèn xung phong dưới yểm trợ của cối
và sơn pháo. Quân ta sau mỗi đợt pháo, đứng khỏi giao thông hào... Vào nữa...vào
nữa đi con...Có đứa nào già không mầy? Tao chỉ thấy toàn con nít, đánh tay
không tao cũng có thể bóp cổ tụi nó được!! Trước mắt lính nhảy dù, một lớp, hai
lớp, những “đứa trẻ” cứ tuần tự đi tới... Những lớp trẻ con chơi trò đánh nhau.
Chơi trò chơi ác độc do ép buộc, tuyệt vọng và vô nghĩa lý.
... Không nương tay với nó... Napalm Hải!!
- Có ngay!!
Hai chiếc skyraider xuống thấp như chưa bao giờ thấp hơn, dưới đất
thấy được chiếc mũ trắng của anh pilot; hình như anh muốn nhìn quân bạn, anh muốn
chào thăm hỏi như sau mỗi lần thả “líp” dù chót, phi cơ thường hạ thấp cách mặt
đất khoảng vài mươi thước để “chào bãi”. Ở đây cũng thế, hai chiếc máy bay rà
sát xuống coi như gần đụng ngọn cây. Thả bom với cao độ như thế nầy chắc chắn
không chệch một thước, bom nổ cháy xém đến tuyến phòng thủ của quân bạn, đám
lính Bắc lăn lộn trong bãi lửa, chạy dạt ra xa... Nhưng ô kìa, hai chiếc
skyraider không lên được nữa... Lòng can đảm và tình đồng đội đã giết các anh.
Các anh đã xuống quá thấp để ném bom thật chính xác, để bung địch ra cho bạn.
Các anh đã quên thân mình... Hai cánh đại bàng chúi xuống. Chúi xuống nữa và bốc
cháy... Vĩnh biệt các anh! Đám cháy kết thúc trận đánh. thây người cháy đen nằm
chật sườn đồi.
...chúng nó đánh, chết như thế để làm gì nhỉ!? Một ngày của hai
mươi bốn giờ trên thép đỏ và máu nóng đi qua. Trời tối dần. Đêm xuống... Người
lính dựa lưng vào giao thông hào liếm môiâ. Môi anh nóng như miếng vỏ cây bi
nung khô... từ sáng đến giờ chưa được uống nước. Anh không còn sức để nghĩ thêm
sau chữ “nước”.
Ngày 14 tháng Tư tiếp theo. Tính đến hai giờ chiều, C2 nhận hơn
2000 đạn “delay” và nổ chụp. toàn bộ tiểu đoàn 11 co mình trong giao thông hào
dưới cơn mưa pháo không dứt đoạn.
... Nó nổ xa mình. Hải thều thào,
- Ừ phía Tây, ngoài tuyến mình. Liệu tiếp lời, gật đầu đồng ý với
Hải. Nhưng thật ra cả hai đều tự dối, pháo không rơi một điểm, một tuyến, pháo
chụp toàn thể C2. Pháo tan nát. Pháo mênh mông. Tất cả những lời nói chỉ là
cách tự đánh lừa, trấn tỉnh đồng đội và cũng chính mình.
- Hôm nay 14? Liệu hỏi bâng quơ, gợi chuyện trong tiếng nổ ầm ỉ
sắc buốt. Mễ Hải không trả lời, đưa mắt dò hỏi. Còn lời nào trong cơn mưa lũ của
sắt thép vang độâng nầy ?!
- Hôm nay mười bốn, mai mười lăm, ngày đầy tháng con tôi...
Bốn con mắt lại mở ra. Mễ và Hải không hiểu ý Liệu. Không hể hiểu
nổi... Vì Liệu đang nghĩ: Không lẽ ngày đầy tháng con bố lại chết?! “ Chết”, chữ
nhỏ ngắn nầy làm tê liệt hết phản ứng. Chết đến từ tiếng “bục” âm âm nơi xa,
sâu trong rặng Big Mama... xong nổ “oành” đâu đây... Hình như ngay trên đỉnh đầu,
trong lòng nón sắc đang vang động u u. Giữa khoảng cách kinh khiếp nầy chữ “chết“
hiện ra sáng rực như một giải quang báo, tiếp nổ bùng với toàn hể sức công phá.
Tiếp tục... tiếp tục... Bốn cây 130 ly nơi xa nã đạn xuống Charlie nhịp nhàng từng
ngắt khoảng ngắn.
Năm giờ chiều, trận mưa đại pháo chấm dứt để cối và sơn pháo 75
ly điểm giọt, bắn thẳng vào căn cứ.
- Xong rồi, tụi nó “chơi’ mình lại. Mễ đứng khỏi giao thông hào.
Đêm nay là quyết định, mình và nó last fighting... Mễ báo cáo với bộ chỉ huy lữ
đoàn,
- Bây giờ tụi nó hết “in coming (pháo kích)”, và bắt đầu “ground
attack”. Không phải Mễ sính dùng tiếng Mỹ, bởi thông thường, những danh từ kia
phải được nguỵ hoá, nhưng bây giờ tìm đâu ra thì giờ để dò tìm từng từ trong bảng
“Ám danh đàm thoại”.
- Nó đánh anh chưa? Viên lữ đoàn trưởng ở căn cứ Võ Định vào máy
liên lạc trực tiếp với Mễ.
- Bắc đầu ở hướng cũ, tây và tây-nam, heavy attack,
Tất cả đứng khỏi hầm, đạn súng colt lên nòng, bác sĩ Liệu lúi
húi tìm mấy trái lựu đạn... Tôi hết đồ nghề bác sĩ rồi, chơi “đồ chơi” mới vậy,
lần sau đi hành quân, tôi mang một khẩu đại liên 60!! Không ai còn sức hưởng ứng
câu đùa của Liệu. Mễ nhăn mặt đau đớn, ngày hôm qua bị một quả pétard (thủ
pháo, một loại lựu đạn biến chế) nổ quá gần, sức nổ ép cứng xương sườn vào vách
hầm, để lại những vết máu bầm lấm chấm...
Trời tối dần, hơi núi đùn lên cao, đậm đặc thêm vì khói súng. Bắc
quân đã chiếm được một phần giao thông hào, tuyến phòng thủ của đại đội
114...Trình Mê Linh, nó lấy của của tôi một “khúc ruột”. Cho, đại đội trưởng
114 báo cáo với Mễ,
- Hải, nói với lữ đoàn nó vào tuyến mình rồi,
- Tao...tao mệt... nói không nổi, Liệu giúp hộ...
Bác sĩ Liệu, to người, béo mập, đang khom lưng lẫy súng colt lạch
cạch như trong phim cao-bồi, chớp ống liên hợp máy truyền tin,
... Dễ thôi, để tôi... Tụi nó cắm được một phần vỏ lạc của
tôi... Liệu ề à với giọng tỉnh táo đùa cợt,
- Ông phải la lên mới được, đùa thế, ngoài ấy tưởng mình giỡn,
- Giỡn làm sao, không đùa như thế, chẳng nhẻ lại khóc lóc mếu
máo sao... Ê... chạy đi đâu!! Liệu quay nòng súng colt về phía một anh lính
đang nháo nhát chạy vào khu giao thông hào trung tâm,
- Đi ra, ông bác sĩ không bắn mầy thì tao bắn cho mầy biết chết
như thế nào? Mễ hét lớn với người lính... “biết chết như thế nào?!”. Mễ cũng buồn
cười vì lời nói của mình... Chết rồi, thì biết chó thế nào nữa?! Ầm! Một trái bộc-pha
nổ thật gần, bắn Mễ ngã ngữa người xuống. Mễ lồm cồm bò dậy, sờ lưng,
...bác sĩ, chắc tao bị thương nặng!! Mễ thều thào.
Liệu xoa tay lên lưng Mễ, thân áo rách lỗ chổ...Đếch có gì cả, mảnh
nhỏ như bụi, vì ông yếu sức nên ngất thế thôi, đây là hậu quả những cú đấm của
thằng Hennessy, Couvoisier trước kia!!
...C... giờ nầy mà mầy còn trêu được!
- Stupid! Why you fire forty-five? Anh vố vấn trưởng, thiếu tá
Duffy hét vào tai Liệu,
- I have only this... Mẹ mày, giờ nầy còn why với what....What
cái cần câu ông ấy,
Một đợt, hai đợt... năm đợt, Bắc quân tràn vào, bị đẩy ra, lại
tiếp tục tràn vào, chiếm được một đoạn giao thông hào, xong lấn dần từng đoạn,
- Không xong rồi, nó nhiều “tiền” quá! Hải lẩm bẫm.
Mễ nhìn Liệu, Hải, cố vấn trưởng Duffy. Tôi muốn ở lại! Mễ chắc
giọng.
-Nó vào chỗ thằng 4 (đại đội 4), đang qua chỗ thằng 2, mình hết
đạn... Dọt, tôi đề nghị. Hải khôn ngoan, dứt khoát.
- Phải, mình “ra” đi, ở đây chịu không nổi, tụi nó đông gấp mấy
mình. Liệu tiếp theo. Chữ “ra” ráo hoảnh trống không.
Mễ im lặng, gở nón sắc ra khỏi đầu,
...No hesitation, the best way... Sir? Duffy, Thiếu Tá Lực Lượng
Đặc Biệt Mỹ, người quấn băng loang lổ máu khô, anh đã bị thương ba nơi trên
thân, nhưng quyết ở lại với tiểu đoàn. Viên cố vấn, hiểu được phút giây nghiêm
trọng đối với Mễ; lần đầu tiên anh gọi người cùng cấp bậc, một thiếu tá người
Việt với danh xưng kính trọng, “sir”.
- Đồng ý, cho thằng 2 dẫn đầu, xong đến đại đội chỉ huy và thằng
4 bao chót. Hải, gọi máy qua thằng 3, bảo nó “nhổ neo” ra điểm hẹn nầy. Mễ chỉ
một vùng tập trung ở hướng đông-bắc trên bản đồ. Bảo nó đi ngay, mang theo
thương binh.
Lần đầu tiên trong đời tác chiến Mễ phải “chạy”, Mậu Thân, 1968,
ở Huế, với đại đội chỉ còn ba mươi người, dẫu trùng trùng nguy khốn, Mễ vẫn điều
quân phản công chiếm lại cổng thành Thượng Tứ. Nhưng, lần nầy, viễn ảnh toàn bộ
tiểu đoàn bị tràn ngập, Mễ không còn cách nào khác hơn.
- Hướng đông-bắc, 800 ly giác, thằng 3 sẽ ra đó với mình. Hải
chuyển lệnh cho Hùng “móm”, thành phần xung kích còn lại cuối cùng của đơn vị.
...OK, em nghe, em làm được cái một. Hùng “móm” vẫn ranh mảnh
như không có chuyện quan trọng đang xẩy ra.
Đi xuống hoài, vực sâu hun hút, trời tối thẫm và cây rừng đan lưới.
Chỉ tiếng lá khẽ động dưới bước chân cùng những thanh âm rên rỉ gầm ghìm trong
cổ họng.Đoàn quân lẫn vào bóng đêm như muốn tan thành vật vô hình. Sau lưng họ
trên đồi cao, C2 bốc lửa ngọn. Bom đã thả xuống khi người lính cuối cùng đại đội
1 ra khỏi vòng vây. Thương binh nặng và xác “anh Năm”, chuỗi cảnh tượng chập chờn
chồng lên trí óc Mễ. Mệt, cảm giác rõ rệt nhất, ba ngày và đêm không ăn, ngủ,
chỉ nhấp chút nước lã cầm hơi và cuối cùng, cuộc rút quân trong đêm... Đi nữa
đi Hùng, đúng hướng rồi, cứ tiếp tục, phía mặt trời đó, bao giờ đến chỗ trống
thì báo tôi. Nhớ liên lạc với thằng 3 ở phía trái, thấy mặt trời thì bảo. Mễ
thì thào chuyển lệnh cho Hùng, đại đội trưởng đại đội 1.
Mặt trời chưa thấy, đêm còn dầy. Dầy từng khối lớn mông mênh và
đặc cứng. Hình như đã đến đáy một “tan-véc”(khe nhỏ chạy giữa hai chân núi),
chân bước lên lớp đất ẩm. Nước! Người lính đặt tay xuống “mặt nước”. Không có,
chỉ một lớp lá ẩm mục và đất bùn, khe suối mùa, chưa có nước. Nhưng bàn tay có
chút ẩm, người lính lè lưỡi liếm miếng nước vô hình đó .
Qua khỏi “tan-véc”, lên đỉnh đồi, thấy lại sau lưng ngọn lửa ở
C2 bập bùng. Bạn bè ta còn đó, sống làm sao được hở trời ?Mễ kiệt lực hỏi,
- Hải, khi chót mình để “anh Năm” ở đâu ?
- Ở giao thông hào, nơi hầm đại liên. Mễ và Hải chỉ nói với nhau
được câu ngắn trong đêm. Nguy biến và rình rập vẫn còn rất nhiều. Sao trời chưa
sáng nhỉ ?Hùng, gắng đi mau hơn nữa, càng xa tụi nó càng tốt, giữ được súng và
thương binh nhẹ như thế này cũng tạm coi như là “đẹp”. Đẹp, hình như Mễ cười chế
riễu mình trong bóng tối. Thôi, đừng nghĩ gì nữa, cởi nón sắt cầm tay, bốn ngày
đội hoài khối sắt trên đầu, khi cởi ra còn nguyên ảo giác của âm vang tiếng nổ
lộng trong lòng chiếc nón kim khí. Mệt quá! Sống rồi! Hùng “móm” kêu một tiếng
sảng khoái, bốc máy báo cáo cho Mễ, nhanh như chớp:
- Tôi thấy “nó” rồi phía tay trái tôi.
Mễ nhìn lên tàng cây, trời tím nhạt chưa có ráng nắng, nhưng
ngày đã bắt đầu, trãng trống vùng tập trung đã gần đến. Thoát rồi chăng? Mễ tự
tin nhưng cũng rất đầy kinh nghiệm: Nó phục mình ở đây nữa thì tan hàng!! Ý
nghĩ kinh khiếp như một mũi dao cực bén cắm ngay đỉnh đầu.Mễ không dám nghĩ tiếp...
- Kêu thằng “Đỗ Phủ” đến tao Hải,
- Duffy come here... Viên thiếu tá cố vấn đang đi sau Hải và Liệu
nghe kêu, mỉm cười bước lại. Ba lần bị thương, bốn ngày chiến đấu không ăn, ngủ,
Duffy vẫn “cứng” như một khối thép, đầu đội mũ đi rừng, khẩu M18 đặt ngang
hông, tự tin và bình thản như một ý chí không lay chuyển. Tiên sư thằng cha này
“dur” cả hồn lẫn xác, number one! Liệu nói với Hải khi Duffy qua mặt để lên gặp
Mễ. Anh chàng hiểu ý, mỉm cười: Hello Doc!!Trong phút chốc sự việc khủng khiếp
của bốn ngày căng cứng như vụt tan đi. Nắng cũng vừa đến, nắng đầu tiên của
ngày, lòng người lính duỗi ra theo độ ấm của vệt ánh sáng. Sống được rồi mừng
biết bao nhiêu!
- Đây nhé Duffy, vùng tập trung của mình, 113 bên trái, phe ta
bên phải cùng “move” lên. Mình làm một cái LZ (bãi đáp), xong “mày” gọi “Tây”
đem máy bay tới móc mình ra, OK ?
- OK Do !! “Đỗ Phủ” gật đầu lia lịa... Good...very good, you’re
the best commander! “Đỗ Phủ” đưa ngón cái lên ca tụng Mễ.
- Tao hay hơn nhiều, cú này bị “kẹt”, mày khen làm tao ngượng.
Duffy không biết Mễ nói gì, cười rộng mồm, Mễ cười theo.
Rất cẩn thận, Mễ cho Hùng “móm” và Hùng “mập” cùng lên trãng trước.
Hai cậu Hùng “bắt tay” nhau, làm thành vòng phòng thủ, phần còn lại của tiểu
đoàn với đám thương binh “bò” lên tiếp... Xong rồi, khá an toàn, giữ được cái
trãng là tốt, có đường thoát rồi.Duffy,có tàu bay chưa ?
- OK! Ten minutes, sir!
Nhưng không còn “ten minutes” nào cho Tiểu Đoàn 11 nữa! Một trận
mưa rào, mưa đầu mùa... Mưa bởi một rừng cối và sơn pháo từ những cao độ phía
đông “tưới” xuống. Bắc quân tấn công bộ từ đông-nam lên. Không hầm hố, không đạn,
mệt mỏi, đói khát của bốn ngày đã đến đỉnh cao nhất chịu đựng. Tiểu đoàn 11 Nhẩy
Dù lăn lộn, cựa quậy hấp hối trên trãng cỏ tranh trơ trụi dưới lưới chụp đan dầy
bởi lửa, khói và mảnh đạn thép... Hàng sống, chống chết! Hàng sống, chống chết!
Bắc quân ào ào như nước lũ tràn đi qua con đê bị vỡ. Tiểu đoàn 11 tựa tình cảnh
con báo kiệt lực bị vây khốn bởi một rừng ong cực độc! Bây giờ là 8 giờ sáng của
ngày 15-4-1972, Tiểu Đoàn Nhẩy Dù mới tinh của Anh Năm, tiểu đoàn đã khoan thủng
bức tường thép của cộng quân ở Damber; tiểu đoàn “nướng sống” hai tiểu đoàn của
sư đoàn Điện Biên trên cứ điểm C- Thua. Thua đau đớn và thua vô lý!! Đâu còn có
thế để dựa vào. Đâu còn lực để đương cự ?!
Muốn đánh nhau phải có “thế” và “lực”.Thế đã mất ngay từ ngày đầu
tiên khi bước xuống cao điểm với một nhiệm vụ “phòng thủ” quá mỏng manh thụ động,
và lực nào còn nổi sau bốn ngày hay 156 giờ tác chiến căng thẳng trên các cao
điểm nguy biến và thiếu thốn toàn diện. Hình như mọi người đều không ăn, uống kể
từ ngày 12.Uống, nếu có chỉ là chữ gọi động tác “nhúng” chiếc lưỡi vào nắp bi
đông ẩm ướt. Tan hàng!! Những người sống sót còn lại tan biến vào rừng cỏ
tranh.
Chương 7: Người ở lại với Charlie,
Charlie tan, trên đất đá điêu tàn chỉ còn vươn vãi khói xám và
thây người. Trong đó có Anh- Người đàn anh kính mến đã cùng tôi chia xẻ quãng đời
dài. Những dòng chữ viết để nhớ Anh - Nguyễn Đình Bảo.
Ngày 22 tháng 5, ông Nixon đi Nga, không ít thì nhiều chuyến đi ấy
đã có tác dụng với cuộc đại tấn công của Bắc quân vào ba quân khu.Rất nhiều giả
thuyết về cuộc kịch chiến này được đem bàn tán, nhưng tất cả đều đồng ý: Chuyến
đi có ảnh hưởng đến trận đánh và đây cũng là trận cuối mùa, một mùa đại loạn đẫm
ướt máu đỏ chảy trên những thân thể gọi là “người Việt Nam”. Ngày 22 tháng 5
ông Nixon khởi đầu chuyến đi, ngày 12 tháng 4 anh chết. Sao anh không gắng sống?
Anh chỉ cần gắng thêm một tháng rưởi nữa, nếu chưa chấm dứt, chiến tranh có thể
mang những hình thức khác, cuộc đại tấn công này sẽ được đình chỉ lại, hoặc
chuyển qua vùng khác... Những vùng dễ đánh để anh có thể tung hoành như anh đã
làm nhiều lần trong tháng năm chinh chiến dằng dặt. Và biết đâu chiến tranh sẽ
biến thái lại nên thành chiến tranh du kích, anh là tiểu đoàn trưởng đơn vị Nhẩy
Dù, làm sao có thể chết được trong những “chiến tranh an toàn” như thế! Tại sao
anh không gắng sống?Tại sao thế hở trời ?
Vẫn biết rằng đi chiến trận là mất mát. Không chết trước thì chết
sau... Trước anh cả trăm ngàn người đã nằm xuống. Anh đã cùng tôi chứng kiến
bao nhiêu lần “nghỉ phép” của ông Huệ, Thừa, Hổ... Anh gật gù, “Thôi tại số,
mình gắng chịu vậy...”. Anh gắng chịu đã quen. Anh đã thoát nhiều lần. Từ trung
đội trưởng tiểu đoàn 8, anh qua tiểu đoàn 3; làm đại đội trưởng tiểu đoàn 1 và
tiếp theo tiểu đoàn 9. Anh đã dự bao nhiêu trận từ thuở ông Đống mới làm tiểu
đoàn trưởng giờ này là Trung Tướng Tư Lệnh; anh đánh trận từ lúc chiến tranh
còn như là trò chơi, ông Tư “Hòa Hảo” đi thuyền vào họp với Việt Cộng, đám giặc
cỏ chỉ vài cây súng ngựa trời hay 2 khẩu Mat 36 để thay đại liên. Từ những trận
đánh nhỏ đó, anh được “trưởng thành trong khói lửa”, thành ngữ nói ra nghe có vẻ
“cải lương” nhưng quả thật không còn chữ nghĩa nào để dùng chính xác hơn. Anh
đánh trận Ấp Bắc, giải vây đồn Bổ Túc vào những năm 60, với những trận đánh mở
đầu “chiến tranh giải phóng”. Chiến tranh lớn dần như một thứ quái thai được
mùa, như tế bào ung thư ngon trớn, chiến tranh lớn như sinh vật quái dị ở hành
tinh khác đến đây nẩy nở theo cùng chiều rộng của không gian. Khói lửa từ đấy dậy
lên như giông bão. Trong “môi trường” hào hùng độc địa nầy - Anh trưởng thành.
Anh già hơn không phải do số tuổi, nhưng chiến trận, hành quân
như nối mối thời gian để nhắc nhở mỗi ngày, mỗi tháng, năm anh qua... Năm 1965
giải vây Đức Cơ, Pleiku; năm 1966 bị phục kích ở Cheo Reo, cũng năm này “giải
phóng” Bồng Sơn, Tam Quan.67 “lội” nát người suốt vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, từ
cái làng nhỏ ở bên kia sông Hương nhìn ra phá Tam Giang, đến cuộc tấn công vào
khu phi quân sự đổ từ đèo Ba Giốc xuống. Hết 67 đến 68 anh đem quân về vùng đồng
Ông Cộ, Hốc Môn, Bà Điểm; Việt cộng tấn công đợt Hai, tiểu đoàn 9 do anh làm
“ông Phó” có cơ hội “rửa mặt” nhân vụ tịch thu cả hầm vũ khí chở đầy một chiếc
F.O.M.Chiến thuật thay đổi, từ ven đô anh di chuyển về Tây Ninh để “cày” từ Tống
Lệ Chân qua Katum, Trại Bí... Suốt một vùng biên giới dài theo con sông Vàm Cỏ
anh đi như không mệt... Anh đi như định mệnh đốn mạt bắt anh dính liền vào mỗi
thước đất phải bước qua.
Nhưng chưa bao giờ nghe anh than tiếng nhỏ. Sự chịu đựng và vẻ
bình thản là tính chất căn bản của anh.
- Mầy biết nhá, tao di cư vào, mỗi ngày phải đạp xe mờ người chạy
từ trại định cư đến Phú Thọ để lấy khẩu phần bánh mì và năm đồng bạc. Mầy biết,
tao tập thể thao to chừng này, thằng Tây bán thịt gần trăm ký bị tao ném một cú
đòn vai, nằm luôn.
Anh là con nhà võ, thắt đai đen nhu đạo thời kỳ 56, 57, tính chất
võ chân truyền này là nền tảng tinh thần của anh. Đó là một tinh thần rất thường
ở bề mặt nhưng phần trong rất “sáng”; một thứ “sáng” mã thượng, độ lượng và
chân thật - Chân thật và thẳng thắn tuyệt đối. Anh sống ở đời giản dị và thẳng
thắn như kẻ có võ công thượng thừa lại thêm tâm tư nhân ái. Anh không một lần
than thở dù lúc làm “ông Phó” ở tiểu đoàn 9 anh bị “kẹt”. Anh bị nạn. Anh bị
“ép”. Bị “nát như cái mền”. Nhưng tất cả đã không làđáng kể... Hãy nghe anh
nói:
- Mày thấy, tao là lính tác chiến, rồi cũng có ngày tao phải chỉ
huy, nhỡ bị kẹt là cái hạn của mình, sau đó mình “bốc”. Anh cong một bàn tay
lên làm cú “bốc” kèm theo tiếng chửi thề “mẹ”. Sự bực dọc của anh chỉ được diễn
tả chừng ấy.Không hận đời và tin ở mình.Trong đời sống bình thường, anh sống với
thái độ khắc kỷ thật cao thượng.
Anh Năm kính yêu,
Anh chết ngày 12 tháng Tư, đến giờ này, sau ba ngày xác anh vẫn
chưa móc ra được. Ngày 14 ông Bạch Long cho hai trực thăng và một Skyraider
vào, cố làm một bãi đáp để đưa anh ra, cả ba chiếc đều bị “shotdown”. Người
lính về nói với gia đình như thế, cháu Tường bẩy tuổi đã lớn, nhưng cũng chưa
hiểu nổi phận bi thảm của lần mất bố, kể lại câu chuyện... Kể lại phút anh nằm
xuống với lồng ngực bị vỡ. Không biết chi tiết đó có đúng thế không, nhưng cháu
cứ lập lại với mọi người xem như như một nét “xuất sắc” của anh. Tội nghiệp
cháu quá anh ơi, nó đang lún xuống trong một bất hạnh với quả tim hồng và nụ cười
sáng, nó nắm tấm ảnh lúc anh còn ở trường, thắt đai đen bên cạnh ông Hiếu... “Bố
cháu là những người “xuất sắc”!Ôi anh đã sống, chết bới những hoàn cảnh cực độ.
Những phiền não cùng cực và vinh quang bốc lửa. Anh di chuyển giữa những cực điểm
với tâm tư bình yên, lặng lẽ, chiếc lưng gù xuống chịu đựng. Giờ này anh mới
“thật sự nghỉ ngơi”, một cách nghỉ ngơi cay đắng và khắc nghiệt. Cuộc đời đã
“ta-pi” anh trước khi anh kịp đứng lên rũ áo, thối tiền.Anh thua trong sáng suốt
và nín lặng cũng như ván bài ở lăng ông Cẩn ngoài Huế trong tối mùa đông năm
xưa... “Tao biết mày tháu, nhưng cũng cho mày ăn.”Anh úp bài cho tôi vồ tiền.
Anh Năm ơi, anh bị cuộc đời “tháu” cú này nữa. Cúù tháu độc địa và hết thuốc chữa.
Anh chết thật rồi!! Tin cuối cùng rõ ràng về anh do Hải “khều”
nói lại không thể sai vào đâu nữa. Hầm anh hứng đúng ba trái hỏa tiễn, mảnh
ghim vào tim và anh chết ngay phút đầu tiên, khi “tụi nó” bắt đầu đánh biển người
vào Charlie.Hải “gói” anh vào ba lớp poncho, nhưng máy bay không xuống được, Mê
Linh lại bị thương. Chúng nó phải “rút lui chiến thuật” vì pháo và hỏa tiễn rơi
đến cả ngàn trái vào căn cứ, đặc công cảm tử lại phá được hàng rào ngoài.Giữ thế
nào được nữa, Mễ lẫn Hải đều bị thương, chúng cố điều động phần sống sót còn lại
để mở đường máu, bảo toàn đơn vị.Phải bỏ anh lại, chắc chắn Mễ đau đớn lắm, vì
hắn và tôi đều nặng ân tình với anh biết mấy; từ thuở ở tiểu đoàn 9, anh “che”
cho hắn bao nhiêu đòn; Mễ là đứa rất có tình, bỏ anh lại nơi chốn núi rừng, vùi
dưới đống đất cát và lửa đỏ chắc là vết thương dài đời không hết, tâm hồn khó
được phần quên lãng nguôi ngoai.
Mấy hôm nay tôi ngủ không được, mắt nhắm lại thấy cảnh anh đang
chết, những giờ khắc cuối cùng, anh chống ngược mắt xuôi tay và đi khuất... Tưởng
đến tiếng nói, nụ cười và toàn thể không khí của bữa cơm chót trong vườn Tao
Đàn, đâu có ngờ đây là bữa cơm vĩnh biệt?! Chưa bao giờ anh vui vẻ và tự tin
cho bằng thời gian đó: “Số tao hết cực rồi, hạn 33 tuổi đi qua... Tao làm lớn
cho mày nhờ.”Tôi cũng nghĩ như thế, vì cái “võ nghiệp” cứ phú quý thụt lùi,
thôi thì chỉ mong ngày anh “làm ông tướng!!”Ngày đó sẽ không bao giờ có nữa,
cũng không còn những ngày vui như buổi chiều cuối năm mờ hơi sương, anh và tôi
đứng ở sườn đồi nhìn xuống sông Hương bốc khói lam, nồng hớp rượu “số Bảy”
không đá, nghe từng âm ba rộn rã của men rượu tan trong máu và cất tiếng cười bất
chợt... Tiếng cười hào sảng thống khoái vang động không khí u trầm bí ẩnchiều
cuối năm dầy sương lạnh.
Tôi cũng tin vào số mạng, biết rằng anh có tướng lộ xỉ không được
tốt, nhưng bù lại tai anh dày, có thùy châu, bước đi vững chãi... Nên nghĩ rằng
anh sẽ đi qua, anh sẽ vượt qua tất cả hoạn nạn, vì anh đã hoạn nạn dư thừa, hoạn
nạn ngập mặt. Từ tuổi thiếu niên anh đã gian nan phấn đấu, phấn đấu để thành
người và dựng đời, anh đối chọi với khó khăn như con trâu miệt mài trên đồng ruộng.
Năm nay anh 35 hay 36 tuổi, tôi không được rõ, nhưng hình như anh chưa có ngày
nghỉ ngơi toàn nghĩa. Cuối đời, vừa le lói chút ánh sáng bình yên và hạnh phúc,
anh hân hoan sửa soạn tương lại, rộn rã như cô dâu tốt số. Đời đã quật anh cú
chót và anh đành thua. Bao nhiêu năm tranh sống để lúc chết quả tim đang hả miệng
cười.
Tiểu đoàn rút khỏi Charlie và phi cơ oanh kích căn cứ. Ôi sao
tàn khốc thế hở trời?! Anh đã sống cay nghiệt sao cái chết lại quá bi thương.
Ba lớp poncho gói thân anh làm sao che chở nổi hình hài vô tri dưới cơn mưa
bom, bão thép. Phép màu nào giữ nổi xác thân anh? Vĩnh biệt, Anh Năm kính
yêu...Nơi chốn hư không nào...Mong linh hồn anh được lần yên nghỉ.
Viết lại,
12, Tháng Tư, 1972 - 12 tháng Tư, 1998.
Lần “thật chết như luôn sống lại”,
Dù bao lâu,
Cách bao xa.
Chương 8: Tạm Kết Giữa Mùa Hè
Charlie mất, Delta ở phía nam do tiểu đoàn 7 Dù phải rút đi vì
không chịu nổi cuộc cường tập kéo dài qua ngày thứ tư; đai Nhẩy Dù tan vỡ dần
như chuỗi dây xích nút đầu bị phá.Chỉ còn lại hai cứ điểm chót là Bravo và
Métro ở trái, phải Võ Định. Nhưng Võ Định không thể là một điểm chiến thuật vững
chắc khi cạnh sườn đã bị nhổ. Ngày 24, tháng Tư, phi trường Phượng Hoàng (tây
Tân Cảnh), Tân Cảnh và hai căn cứ Diên Bình, Zuzu ở phía nam lần lượt tan rã.
Võ Định không còn là một cứ điểm có khả năng kháng cự và bộ chỉ huy lữ đoàn 2
đưa tiểu đoàn 7 dần dần mở đường xuôi nam hướng Kontum. Kontum dưới ảnh hưởng của
việc mất Tân Cảnh biến thành cảnh địa ngục với những trận đánh sát nách thành
phố, như ở Đại chủng viện, khu phi trường. Những đơn vị đặc công Bắc quân với
ám hiệu riêng: Tay áo cuốn lên quá cùi chỏ, quần xắn quá đùi, mảnh vải trắng buộc
quanh vai, đã đột nhập vào những nơi trọng yếu của thị xã.Công trường 2 cộng sản
sau khi dưỡng quân, vượt sông Pô-kơđánh vào sườn của lữ đoàn 2 và các chiến
đoàn Biệt Động Quân. Hết, lữ đoàn 2 Dù chỉ còn mỗi đường, các tiểu đoàn tự
nương bảo vệ lẫn nhau rút về Pleiku. Lữ đoàn lại hết nhiệm vụ Vùng II để ra
Vùng I. Đường về Pleiku phải qua đèo Chu Pao đỉnh núi 953 trông xuống sông Dak
Yeul với những cao độ thẳng đứng. Chỉ còn mỗi đường này là sinh lộ, nhưng sinh
lộ phải qua điểm chết: Đèo Chu Pao. Hai đại đội của tiểu đoàn 7 Dù do Nguyễn Lô
(Tiểu đoàn phó) chỉ huy mở một đường đi qua điểm chết với chấp nhận tỷ lệ thiệt
hại 50% quân số. Và cũng như bao lần của mười năm chiến trận, Lô mở được cửa
ngõ về Pleiku, dân và quân theo đó rút đi.Rút đi khỏi địa ngục, vì Kontum không
còn là thành phố sống, người dân thất thần dáo dác giành dựt nhau kiếm một chỗ
trực thăng ở sân vận động... Giữa bụi mù và tiếng nổ đại pháo, cảnh người sống
cuồng loạn đổ xô vào lòng trực thăng bất chấp tiếng súng thị oai của quân cảnh.
Họ chen nhau như nước tràn qua đê vỡ để đến gần, đến gần hơn chút nữa ngưỡng cửa
trực thăng, và lúc tay vừa chạm được khối sắt xám phủ bụi đỏ, chân cong lên sắp
bước vào lòng của “hy vọng sự sống” thì một cơn sóng khác, đạp họ ngã xuống,
kéùo hút ra xa...
Kontum cháy ngọn lửa hồng lên cao hẳn khỏi rừng xanh. Chỉ còn mỗi
hình ảnh bình yên nơi thành phố đang bùng lửa này là hàng phượng đỏ hoa gần câu
lạc bộ ngã cành xuống mặt nước sông Dakpla mờ sương khói. Nhưng phượng cũng có
màu đỏ - Màu của máu.
Chương 9: An Lộc,
Miền Đông không bình yên
Bỗng chốc thị trấn nhỏ về cực đông-nam phần cuối con đường 13 biến
thành địa danh vang dội toàn thế giới... Guernica, Arden, Berlin của Thế Chiến
lần Hai không còn ý nghĩa khi so với thị trấn bề dài 1800 thước và bề ngang từ
cửa Phú Lổ đến hàng rào phòng thủ tiểu khu đo đúng 1000 thước. Trên diện tích
bé nhỏ nầy, lại nhỏ hơn nữa của những ngày “tử thủ”, khi thành phố “co” lại với
khoảng 900 thước bề dài còn lại-Một ô vuông cây số hứng chịu gần 60 ngàn quả đạn,
đạn đại bác bắn tập trung từ mười vị trí trở lên trong 100 ngày vây khốn. Thế
nhưng, An Lộc đã chịu đựng được. Quân và Dân ở An Lộc đã chịu đựng được. Chịu đựng-
Sức mạnh tự nhiên không bờ, không đáy- Với nó, trong đó, Người Việt ngụp lặn miệt
mài để tồn tại.
Sống! Thượng Đế ban món quà hiếm hoi quý giá này cho dân tộc ta
quá khó khăn, hẹp lượng. Chỉ được sống, đám dân và lính ở An Lộc đã phải căng
mình hứng chịu dài cơn bão săm sắp tiếng nổ và mảnh thép, trong ba tháng. Họ
lên đến những “đỉnh” đau đớn chóng mặt, như từ một độ cao hai trăm thước, người
mẹ sẩy tay đánh rơi đứa con khi trực thăng chao mạnh. Cái chấm nhỏ bé tội nghiệp
rơi dần dần vào một cõi xa xăm mất hút...Không nghe được tiếng động của thân thể
trẻ thơ đập mạnh trên đất đá. Không có tiếng thét bi ai của người mẹ mất con...
Chỉ âm động phần phật cánh quạt phi cơ và gió bạt trên không gian im lặng. Từ đỉnh
cao hai trăm thước đến vực sâu hai thước giữa lòng đất đỏ lạnh tanh, người cha
bình thản ngồi xếp ngay ngắn, thẳng hàng hình hài năm đứa con và người vợ, sau
khi đã đặt tay chân đúng vào thân thể của mỗi đứa.
Nỗi đau đớn dài như con đường 13 từ An Lộc về Chơn Thành. Lai
Khê, Bình Dương, An Lộc, Lộc Ninh... Tên đặt ra nghe sao quá thê thảm, tội nghiệp,
làm gì có “bình an” nơi miền Đông tàn khốc này... Tất cả chỉ là ước vọng. Nói
thật hơn, chỉ là những hư vọng khó có lần hiện thực- Ảo giác mù mờ khi con người
đã đến đáy khốn cùng. Chạm tay sự chết.
Trong qui ước truyền tin quân đội, chữ A được đánh vần là
“Alpha” hay “Anh Dũng”.An Lộc cũng bắt đầu với chữ A, thế nên tôi gọi “An Lộc
là Anh Dũng”; tĩnh từ này đã được dùng quá nhiều, đến độ nhàm chán, nhưng ngoài
nó ra không còn một danh từ nào xác thực và đúùng đắn hơn. Phải, An Lộc là Anh
Dũng. Chiến đấu ở An Lộc- Sống ở An Lộc- Chết ở An Lộc - Tất cả đều trùng trùng
tràn ngập, vây kín, kích động bởi tính chất anh hùng. Tôi không nói quá lời, với
chân thật của người cầm bút và tấm lòng giản dị của người lính, xin xác nhận lại
một điều: An Lộc - Anh Dũng. Yếu tính của thành phố, người và sự kiện nơi An Lộc
là tỉnh từ giản dị đầy đủ kia.
Mười năm kinh qua trận địa, bao nhiêu trang sách về binh sử đã
được đọc, tất cả đều bị An Lộc vượt xa, vượt một tầm quá lớn mà không một trận
chiến nào có thể bén gót được. Kiến thức quân sự, ý niệm chiến tranh, tất cả bị
đổ nhào vô nghĩa, vô dụng với An Lộc. Chắc chắn như thế, nếu ai hằng đến sống,
chết cùng với nơi chốn ấy một lần. Những “huyền thoại” về An Lộc đã được khai
thác, nhưng không hết. Những người kiệt liệt của An Lộc đã được nhiều nhắc nhở
nhưng chưa đủ. Tôi nối tiếp công việc này vì An Lộc không những chỉ có Tướng
Hưng với các Trung Đoàn 8, 9, 48, 52 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Đại Tá Huấn với
Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù; Liên Đoàn 3 BĐQ, và Đại Tá Nhật với thành phần cơ hữu
Tiểu Khu Bình Long. Ngoài những lực lượng này, còn có Lữ Đoàn I Nhẩy Dù, đơn vị
tham chiến từ ngày 7-4, bắt tay An Lộc lần một vào ngày 16-4 và lần thứ hai sau
trận đánh trên tất cả các trận đánh, Tiểu Đoàn 6 Dù “clear” hai cây số còn lại
vào đến Thanh Bình (hay đồn điền Xa Cam) trong “bốn mươi lăm phút chiến trận”.An
Lộc được “bắt tay” lần thứ hai lúc 17g45 ngày 8 tháng 6 năm 1972.
Quê hương của loài nai,
Đường 13 chạy từ ngã ba Chơn Thành đến An Lộc đo được 30 cây số,
tiếp tục về hướng Bắc thêm 18 cây số nữa là Lộc Ninh, bên kia biên giới là
Snoul, qua Snoul con đường ngã theo hướng Tây-Bắc để tới Kratié, nằm cạnh bờ Cửu
Long; nép bên bờ trái con sông, đường chạy tiếp về phía bắc để gặp StungsTeng,
vị trí chiến thuật quan trọng của đường giây ông Hồ từ Bắc vào. Đoạn này có
thêm một tên khác, “đường Sihanouk” cho có vẻ đại đồng nhưng thật ra cũng chỉ
là của anh Hồ cộng sản. Khởi đầu cuộc chiến “Đông Dương lần thứ Hai”, những
công thầnđầu tiên của Trung ương Cục Miền Nam đã lần mò, tìm kiếm, ráp nối lại
con đường... Bắt đầu từ vùng suối Đá, suối Chà Là, suối Ma vùng Bình Long, Phước
Long, băng qua biên giới, đến những “mật khu” trong tương lai sẽ vang danh theo
chiều rộng thế giới: Lưỡi Câu, Mõ Vẹt. Năm 1970, đại quân Miền Nam từ Bình
Long, Tây Ninh, đồng loạt xua quân qua biên giới; cánh quân cực bắc của lực lượng
vượt biên đã có lần đi xa quá Snoul để đến gần Kratié. Cộng quân tan nát, đổ vỡ
toàn thể hạ tầng cơ sở, kho tàng, trọng điểm tiếp liệu và căn cứ trung ương.
Hai năm sau, những ngày đầu 1972, một lực lượng cộng khác, thứ cộng nguyên gốc,
theo một kế hoạch được bảo mật tinh vi, chuẩn bị yểm trợ cho mục tiêu chính trị,
từ miền Bắc xuôi theo đường 13 vượt qua Snoul cùng ào vào Lộc Ninh với 3 sư
đoàn chính qui thượng thặng, sau khi được giàn đại pháo 130 đã dọn sẵn đường.
Sau Lộc Ninh là An Lộc. Và thị trấn nhỏ bé của miền cực đông-nam Nam bộ, bắt đầu
co vào trong một thế gọi là “tử thủ”. Địa ngục có thật bắt đầu từ ngày đầu
tháng 4-72 ở đây. Nơi An Lộc.
An Lộc không phải là thị trấn, thành phố, thật ra chỉ là thị xã
tỉnh Bình Long, đồng thời cũng là quận lỵ Quận An Lộc, tức Quận Châu Thành của
tỉnh. Tỉnh gồm ba quận, Lộc Ninh cực bắc, An Lộc giữa và Chơn Thành phía nam. Tất
cả cơ sở hành chánh đều nằm trên con đường 13, con đường lớn phẳng phiu chạy thẳng
theo hướng Bắc-Nam, vạch một đường đen thẫm giữa rừng cao su xanh lá, nổi bật
trên màu đất đỏ nâu mịn màng đẹp đẽ. Đỏ nâu cũng là màu máu khô, đường 13, con
số của sự xấu - Định mệnh đã định rõ: Con lộ mang số tử thần và màu máu thẫm -
Hai cuộc chiến tranh chứng tỏ có một Thượng Đế nhẫn tâm khắc nghiệt đã sắp đặt
sẵn điêu linh cho nơi chốn, lẫn người. An Lộc, tên nghe thuần hậu hiền lành,
như cảnh tượng đàn nai chạy tung tăng trên đồng cỏ tranh mượt sóng. Đàn nai sống
no đủ bình yên, được che chở bởi tàng cao su, rừng bạt ngàn xanh im bóng nắng
và hàng vạn con suối mang đủ các địa danh Việt, Miên, Thượng... Những giòng suối
đầu tiên của sông Bé ở phía đông và sông Sài Gòn ở phía tây. Bình Long- Quê
hương loài nai nằm giữa hai con sông trải dài trên một bình nguyên bao la,miền
Đồng Nai thượng không những chỉ là một vị thế tốt, còn là chiếc nôi nuôi dưỡng
quốc gia với tài nguyên thiên nhiên phong phú, quý hiếm. Đất rộng mênh mông trải
dài chập chùng đồi thấp đến tận Biên Hòa, Gia Định. Đất giàu đẹp, uy nghi như
hãnh diện bất tận quê hương. Nhưng, đúng là quê hương khốn nạn. Quê hương gắng
chịu tai ương của nhân loại. Quê hương nguy khốn, ngặt nghèo. Quê hương lửa dậy
và Bình Long hừng hực tro bay. Nơi sự sống không còn mặt đất.
Chương 10: Địa Ngục Trước Mặt,
Khi đứng trước An Lộc, dẫu kiễng chân, mở to mắt, tôi cũng chỉ
thấy được một tòa lầu cao, ngói đỏ, con đường hơi ép trái trước khi vào thành
phố, chiếc tăng T54 nằm bên vệ đường, che khuất một phần không gian. An Lộc
cách một khoảng 1700 thước, nhưng sao đã thấy từng cơn rung trong lòng, đã thấy
thái dương giật giật.Đâu phải chiến tranh chỉ có ở trong đó, nơi tôi đứng, năm
mươi sáu xác chết của C7, C8 (đại đội 7, 8) của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 275,
Công Trường 7 đang nằm chật trong các công sự phòng thủ; nơi đây cũng có hai
T54, ba PKR 79 nằm chúi đầu xuống hố bom, bộ máy bị tan nát vì lựu đạn công
phá. Nơi tôi đứng, chỉ mười lăm phút trước, Đại Đội 62 Tiểu Đoàn 6 Nhẩy Dù đã
xung phong cú chót bắt tay với Đại Đội 81 Tiểu Đoàn 8 Nhẩy Dù. Lần bắt tay vinh
quang của quân sử người Việt phương Nam. Nhưng, nơi tôi đứng cũng dậy mùi người
chết gây tanh trong gió...Chiến trường nơi đây cũng đã quá nặng độ, nào cần vào
đến trong kia.Nhưng An Lộc nơi xa 1700 thước ấy lại gây cho tôi cơn đau đớn giật
ngược, người cồn cào nóng rực tưởng như đứng trước một người thân vừa ngã chết!
- Tôi vào trong đó nghe anh Năm? Tôi hỏi trung tá Đỉnh, tiểu
đoàn trưởng 6 Dù.
- Khoan, mai sớm hẵn hay, đợi đi, từ thằng 8 (tiểu đoàn 8) vào
trong kia đâu có yên, nó pháo chết cha mày. Chết lại không có được “tuyên dương
công trạng” nữa,
- Ừ vậy thôi, ngày mai.
Đêm xuống thật nhanh trong rừng, rừng cũng chỉ là chữ để gọi tên
một vùng cây, vì ở đây rừng chỉ còn những thân cây cháy đen tua tủa dựng lên trời
với cành khô không lá. Cây ngổn ngang và rừng điêu tàn. Bom đánh xuống cháy một
xóm nhà vốn là sự thường trong chiến tranh, nhưng đốt cháy hẳn một cánh rừng
bao la thì chỉ có ở Việt Nam. Nơi thiên nhiên biến dạng bởi lửa đỏ. Tắt lửa, trời
tối thẫm, vài viên đạn đại pháo cầm canh điểm giọt dài từ bắc An Lộc đến cuối
nơi đóng quân của Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Lần đầu tiên tôi dự trận
chiến “bắn quấy phá” do pháo của Cộng quân.Ưu thế hỏa lực vùng này không cần phải
xét thêm, địch hơn hẳn ta một chặng đường dài, quá dài không theo kịp. Trời
sáng tôi sửa soạn hành lý để dông. Có tiếng người gọi 64 (Đỉnh) ở trong máy. Tiểu
đoàn trưởng5 Dù ngỏ lời chào mừng Tiểu Đoàn 6,
-Ông bắt tay được với tiểu đoàn 8 là tay cừ,tụi này đợi cả hai
tháng, chả có ai nắm được tay mình, mỏi bỏ mẹ...
- Hì... hì, Đỉnh cười thích chí. Hiếu khóa 14, Đỉnh 15 Đà-Lạt,
cùng là dân năm 54 “mang rau muống vào Nam diệt thù”, nay gặp được nhau giữa rừng
chiến trận, câu chuyện vang vang những lời thống khoái... Có Nam Xương (Danh hiệu
truyền tin trước kia của tôi, Nam là tên, Xương nghĩa là không có... thịt) lên
đây với tôi, 55 (Hiếu) có muốn gần nó không ?
- Đâu đâu, cho tôi nói chuyện với nó một chút, lâu không được
nói chuyện với dân civil !!Chắc giọng nó “thơm” lắm.
Tôi cười ngượng ngùng, có một chút xấu hổ làm cứng mặt, đàn anh
của tôi đã nói thật. Nhu cầu được gặp và nói chuyện với người lạ là một phản ứng
thông thường của người lính miệt mài torng rừng rậm. Bao nhiêu lần tôi cũng đã
có cảm giác này.Chui rúc mãi trong rừng sâu, đóng quân ở nơi hoang dã, khi thấy
được một con đường, dù chỉ là loại đường đất trải đá dẫn đến một làng xóm cũng
gây nên cảm giác ấm áp trong lòng - Cảm giác sống giữa nơi có người, không lẻ
loi ... Gặp mặt người, ước muốn sao nghe quá cay đắng, nhưng chính là một hạnh
phúc tội nghiệp mà chỉ có người lính trong chiến tranh mới cảm thấy.
Tám trăm thước từ tiểu đoàn 6 đến khu vực tiểu đoàn 5 tôi đi hơn
nửa giờ...”Mày đi qua đó thì coi chừng, có hai hướng pháo, một ở tây-bắc, một ở
đông-nam. Nếu ở hướng đông-nam lại thì không sợ, chỉ sợ hướng tây-bắc, khi nào
nghe pháo tới thì đứng xây lưng vào cây cao su hoặc nhẩy xuống hố”.Đỉnh dặn dò
tôi trước khi vào vùng pháo.
- Anh coi thường tôi quá, cũng đã là Đại Đội Trưởng Đại Đội 93
Tiểu Đoàn 9 từ 1965 chứ đâu phải là dân cù lần chưa đánh giặc,
- Tại vì mày đeo cái máy ảnh, tao cứ tưởng mày làm báo thứ thiệt!!
- Báo quái gì, giang hồ chơi vậy thôi, tôi dọt, về viết bài bốc
anh. Rừng không nắng, đất đỏ tung tóe, cây gẫy đổ chắn lối đi, xác Bắc quân
chôn tập thể ngổn ngang gò đống, pháo rời rạc rơi, cứ năm phút từng cặp một...
Tôi cũng nhiều phen tìm hố để ẩn nhưng người làm sao nhanh hơn đạn, khi đứng được
trong hố thì đạn đã chạm nổ rồi!! Mới hơn một năm đã quên bố hết phản ứng... Chẳng
bù năm xưa khi trái đạn đầu tiên vừa nổ ở vùng phi quân sự, tôi đã ở nguyên con
trong hố đào bằng nón sắt! Mình hết thời lính rồi.Tôi lẩm bẩm nhắm hướng tiểu
đoàn 5 đi mặc kệ pháo rơi trên mặt lộ... Nếu nhỡ mình chết ở đây thì với tư
cách gì nhỉ?Dân cũng không, lính chẳng phải.Không có một điều gì kéo tôi đến
đây, không lẽ để lấy tài liệu làm “tác phẩm”?!!
Mồm ngậm điếu thuốc, tay bỏ túi quần, tay giữ máy ảnh, tôi cũng lạ
với mình trong phút giây “đạt đạo” này. Đời là sự vô thường !! Tôi luận lung
tung trong đầu khi bước chân đi qua vùng rừng được lính Nhẩy Dù đặt danh hiệu
“bãi pháo”. Pháo là pháo kích, đại pháo của Cộng. Hơn ngàn người dân An Lộc đã
chết trên tám trăm thước ngắn này trong những ngày trước khi họ cố bỏ nơi đỏ lửa
để xuôi nam... Gạo xấy, tay nải, nón, guốc còn lác đác đầy khoảng rừng.Chụp
hình được hết những mảnh vụn này không ? Tôi tự hỏi khi loay hoay điều chỉnh ống
kính. Chẳng thấy được gì, thôi vậy.Tôi xếp máy đi hết quãng đường.
Đến khu đóng quân của tiểu đoàn 5, chẳng có người lính nào trên
mặt đất, pháo đang nổ ngoài đường. Dứt pháo, những cái nón sắt từ từ nhô lên khỏi
nắp hầm, hầm dưới đất, nắp hầm khum khum như những nấm mồ nhỏ... Cảnh tượng giống
như đàn còng gió khi thấy người đi đến vội tụt xuống cát trên bãi biển. Những
người lính vừa nhô lên thấy tôi nhoẻn miệng cười.
- Báo hả? Có thuốc lá không ?
- Chẳng phải báo beo gì cả! Thuốc lá còn mỗi điếu ở mồm đây, hút
không?
- Hút ! Người lính thò tay lấy điếu thuốc không chậm một giây.
Đến hầm ông Hiếu, phải một phút kêu gọi, ông Tiểu Đoàn Trưởng
thâm niên nhất của Nhẩy Dù mới “bò” ra khỏi ổ... À Toa, đợi đấy, moa đãi toa hộp
bia và bánh do bà vợ vừa gởi lên. Tôi cởi áo giáp, máy ảnh, nhận hộp bia vàng
sánh.Như những người lính im lặng chung quanh, tôi bình thản uống từng hớp bia
hạnh phúc. Đến một độ nào đó con người “bão hòa” với đau đớn, trở thành trơ, mất
xúc cảm và vô vi như một kẻ đạt đạo cao siêu. Tôi chỉ mới qua vài ngày chiến trận,
chỉ mới ở vài ngày dưới vùng “hỏa tập tiên liệu” của địch, đầu cũng đã cứng và
lòng phẳng trắng vô tri.Uống, bia lúc nào cũng ngon và ngọt, thở một hơi thuốc
thơm lên vòm trời âm u.Ầm !Ầm !Lại hai hỏa tiễn, tôi thụt đầu vào lại hầm, hộp
bia sóng sánh trào ra chút bọt nhỏ.Uống thật say đắm, cạn giọt cuối cùng, biết
đâu lát nữa khi vào An Lộc lại bế ngay một quả.
- Lâu quá moa không thấy mặt trời, cao su ở đây còn lá, ngày lại
nhiều pháo kích, ở luôn trong hầm cho tiện.Ra khỏi hầm chẳng làm được gì, nhỡ
có chuyện gì lại thiệt cho đơn vị.Người tiểu đoàn trưởng số 1 đã nói thế, trận
chiến này quả thật không còn chỗ để khai sinh anh hùng. Đánh nhau bằng lưỡi
gươm, người làm tướng thuở xưa có cơ hội chứng tỏ được mưu lược, can đảm và tài
nghệ riêng mình.Đánhbằng gươm, lối đánh mã thượng, quân tử, đánh đối mặt, và chết
không ân hận. Chiến tranh hôm nay với đại pháo xa hàng chục cây số và viên đạn
vô tình nổ chụp. Người thụ động toàn thể dưới vũ khí tàn ác vô nhân. Chiến
tranh không những chỉ hủy diệt đời sống. Chiến tranh còn làm mất giá trị con
người.
Mãn thiên hoa vũ,
Vượt hẳn hết ý niệm từ trước, bỏ xa trí tưởng tượng đã xếp đặt,
An Lộc không “hư” từng khu, không đổ từng khóm, An Lộc vỡ nát, vỡ tan tành, vỡ
vụn...Không còn sự sống trên mặt đất, không còn dấu vết người trên mặt đất,
thành phố chìm dưới hầm, sâu dưới đất, càng sâu càng tốt như một ổ mối khổng lồ
dưới lớp đất bùn bề mặt. Vòng đai thành phố bây giờ đã nới rộng lên phía Bắc đến
gần được sân bay.Những ngày “tử thủ” đường phòng thủ này rút xuống ngang hoành
độ 88, từ đây kéo thẳng đến cực nam bãi trực thăng B45 đo được 800 thước và bề
ngang được 500.Một diện tích rộng chưa tới cây số vuông đã có lần nhận được
8000 viên đạn như trong đêm 11 rạng 12 tháng 5; 8000 viên đạn loại xuyên phá
chưa kể hỏa tiễn và cối tung hoành trên mảnh đất chỉ bằng khu vực Đa Kao.Mỗi
thước vuông đất phải nhận hơn 10 trái đạn.Đạn Delay xuyên xuống đất hơn một thước
mới nổ.Không cần phải trúng ngay hầm chỉ cần nổ bên cạnh cũng đủ xô ngã vách hầm.
Dân và lính thụ động co rút dưới hỏa ngục đổ từ trên trời xuống trong hơn hai
tháng. Pháo không phải từng cơn, từng giờ, từng loạt, pháo đầy trời như mưa,
pháo ào ạt như gió, pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng đường như Mậu
Thân, pháo không đi từng luồn như ở Hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như
mưa bay giăng giăng che kín không gian của những ngày xuân mưa bụi. Dưới bầu trời
đầy những đóa hoa tử thần đó. An Lộc co quắp, vật vã, tan thành mảnh, phất phới
bay như tờ giấy xé nát được tung lên giữa trời lộng gió. Một hỏa tiễn nâng chiếc
xe jeep bay bổng, khối sắt nặng 1/4 tấn vừa rơi xuống chạm mặt đất lại bị thổi
ngược lên cao, nhẩy lên một mái hầm như hộp thiếc nhỏ bị quay cuồng vì những
viên đạn tinh quái chính xác trong phim cao bồi Mỹ.
Pháo đầy trời nên sự chết cũng ở khắp nơi, chết lan như cỏ gà,
chết tự nhiên, như sống thì phải chết. Chết ở An Lộc là hiện tượng tất nhiên.
Gia đình bẩy người, hai vợ chồng năm người con cùng trú trong một cái hầm. Hầm
đào dưới nền nhà trên lót vài tấm ván và một lớp bao cát. Tất cả đo được một
thước bề dày. Tội nghiệp, dân đâu biết được cường độ công phá của đạn 130 ly.
Nên, ầm một tiếng ngắn ngủi, cái nắp hầm tội nghiệp đó tung lên vỡ tan từng mảnh
nhỏ như những hạt nước tóe lên khi hòn đá nặng rơi xuống... Chết! Sáu xác chết
được một người còn sống chắp nhặt, vá víu để xác người mẹ không có tay người
con, để thằng anh không lẫn chân thằng em. Người cha chậm rãi, từ tốn bình thản
đi chọn lựa từng phần thân thể một của mỗi người thân yêu, còn gì trong đầu óc
khô cứng đó. Không còn gì, chẳng nên gọi đó là óc não con người.Người đã chết.
Con người thật đã chết toàn phần ở An Lộc.
Chương 11: Chân Dung Người Giải Phóng,
Trên đây là những hình ảnh củanhững “nội” An Lộc, chung quanh An
Lộc từ những ấp cực tây như Phú Bình qua cực đông Phú Hòa, xuống phía nam như
Thanh Bình, Văn Hiến ... Những tên ấp nghe thật hiền, hiền lành tội nghiệp như
ước vọng nhỏ nhoi của người dân khổ ... Dân cạo mủ, dân làm nhà máy mà hơi nhựa
cao su đã thấm đẫm qua lớp da, bao quanh thớ thịt tại nên một sắc thịt nâu nâu,
nhạt nhạt có cảm giác rút cứng nhão nhoẹt khi chạm phải ... Nhưng những người
dân tồi tàn này đã bị kéo ra khỏi thôn xóm cuối đời - Họ là di dân từ Trung và
Bắc vào - chống nạng bế con, cõng cha mẹ đi dọc đường 13 hướng về Tân Khai, Tần
Ô, Lai Khê để đến Bình Dương, thiên đường yên ổn khốn mạt đang chờ đón, che chở
... Vì chỉ các Bình Dương trên mười cây số là Lái Thiêu, nơi có lũ người được mệnh
danh là “giới trẻ” đang đu đưa trên những chiếc võng ni lông, võng cói, đút cho
nhau những miếng sầu riêng, chôm chôm bằng động tác của phim roméo và
Julliette, bằng thứ nũng nịu hờn dỗi dưới những tàng cây xanh im bóng nắng.
Cũng dưới những tàng cây như thế này ở Bình Dương cách đó không đầy mười phút
Honda, những người dân An Lộc ngồi chồm hỗm nhìn ra con đường ngập nắng, hướng
về mạn Bắc, nơi quê hương cuối đời đang đỏ lửaTay vẫn nắm chặt một mẫu vải vụn
mà suốt bốn ngày không rời bỏ ... Mẫu vải mang hơi hám kích thước, biểu tượng
cho đời sống, niềm hy vọng ở quê nhà.
Người dân rời xóm làng để lại nơi chốn cho những người ”giải
phóng.”Họ đi từ Bắc vào, từ Thanh Hóa, Nghệ An xuống Đồng Hới, băng qua biên giới
dọc theo Tchépone, Mường Nông xuôi dần xuống phía Nam, rẽ vào Kontum hay mặt trận
B3 hoặc tiếp tục xuống vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt trước khi qua lại biên giới để vào
Lộc Ninh, cách An Lộc 18 cây số - Hành lang di chuyển mở rộng không chướng ngại.Họ
đến An Lộc từ đầu tháng Tư sau sáu tháng di chuyển và bắt đầu “được” xích vào cần
chân ga thiết giáp, xích vào cây để bắn máy bay và xích vào cổ người bên cạnh để
đi hết lời nguyền “Sinh Bắc Tử Nam.”Ôi, nhưng đó chỉ là bề ngoài, một bề ngoài
giả dối tội nghiệpđể che chở phần tinh thần đổ nát, tan vỡ trong kinh hoàng,
khiếp đảm.Làm sao không sợ được, vì trong đêm 11 rạng 12 tháng 5, sau khi được
8000 quả đạn dọn sạch đường, 3 trung đoàn, mỗi trung đoàn quân số 3 Tiểu đoàn đầy
đủ được“tùng thiết” với một đại đội chiến xa thuộc các trung đoàn 203 và 303
thiết giáp, tưởng sẽ san bằng An Lộc, giết toàn thể lính Mỹ Ngụy, không để sống
một người dân.Mười bẩy “pass” B52, mỗi “pass” đi qua do 3 phi cơ thực hiện với
42 quả bom 500 ký, 24 quả bom 250 ký. 17 pass bom sát nách An Lộc 600 thước,
chiếc hầm béton của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn I Dù “di chuyển” theo cơn rung của bom.
Bom chiến lược, với nguyên tắc chỉ thả cách quân bạn khi có khoảng cách an toàn
từ hai cây số trở lên. Cuộc đánh bom phải do chính Trung Tướng James
Hollingswoorth của Vùng III điều khiển. Và chỉ một “pass” bom ở Trãng Bàng cũng
đủ làm cho thành phố Sài Gòn chuyển động, cách nơi đánh bom 30 cây số đường
chim bay!Con người nào chịu nổi 17 pass bom đi trên đầu, bao chung quanh không
phải từng lớp nhưng từng chồng, từng tảng âm thanh mà cường độ nằm ngoài sức tưởng
tượng... Sợ, phải sợ, dù người có được đúc bằng thép, thép cũng chảy, người có
uống thuốc liều, thuốc cũng phải tan, Marx, Lénine, ****, Võ Đại tướng chẳng
còn là cái quái gì trong khối không gian điên đảo tàn khốc đó - Sợ, nên dù có
bưng bít, che dấu trong lá thư gởi về gia đình ở Nghệ An, Nguyễn Đình Nghiêm,
ám danh quân số và đơn vị là HT 810042 SZ 7, sau một thời khuyên nhủ gia đình
“công tác tốt để đạt được tiêu chuẩn... Em Ba hãy gắng học tập để tiến bộ đúng
sự hướng dẫn của Đảng...” Cuối thư không thể cầm lòng được, Nghiêm viết thẳng:
“Điều kiện chiến trường rất gian khổ, vô cùng khó khăn, thư có khi 2, 3 năm
không viết được, nên gia đình cha mẹ chớ trông thư con”.Viết thế nào được dưới
17 pass B52 đó? Viết thế nào được dưới AC 130 Spector bằng Ra-đaba quả 105 ly một?!
Không viết thư được là chuyện bắt buộc. Không thể sống được là điều tất nhiên.
Làm sao có thể sống được hở người Cộng Sản? Làm sao để sống và chiến thắng hở
ông Võ Nguyên Giáp - “Thiên tài ngu muội” của lịch sử dân tộc. Lỗi lầm này mấy
biển rửa cho tan. Oán hờn chồng chồng cao ngất.
Ở đây, mặt trận với tàn khốc ngập trời, hậu phương lớn ngoài Bắc
thì được “bồi dưỡng” với hạnh phúc,“Tết này em sẽ mua về cho mạ 1, 5 cân đường,
hợp tác xã ủy nhiệm cho gia đình người đi nghĩa vụ quân sự số lượng đường với
tiêu chuẩn đó.Mạ có nói đem bột, trứng qua bên này, nhưng như vậy thì tốn
quá... Em sẽ làm 50 cái bánh và một gói chè và mạ đã nhất trí ...” Trời đất hỡi,
còn tội nghiệp nào nữa hả trời, ba năm đi làm giải phóng được “hỗn hợp vui vẻ”
bằng phần thưởng 1, 5 cân đường!!Anh “giải phóng” cho ai và để làm gì hở anh
Nguyễn Văn Hưu (số quân, đơn vị 271003TB004)?! Anh giải phóng đồng bào miền Nam
để “nhất trí tiến bộ xã hội” với 1, 5 cân đường sao anh?!
Trước An Lộc, không có một luận lý nào có thể tồn tại được, chỉ
còn tiếng thở dài bi thiết để nén khối đau ra lồng ngực và chớp mi mắt mọng cay
tưởng rơi giọt nước vô hình. Nhưng, khóc cũng không nổi.
Chương 12: Chiến Trường Lộ Mặt
Chiến trường lộ mặt,
An Lộc tàn khốc, nhưng đối với quân dân Miền Nam, sự tàn khốc
này mang một nét bi tráng, hào hùng. Đây là khối lửa nung đốt và tôi chín người.
An Lộc bi thương - Bi thương ấy thúc giục con người cố đạp đổ định mệnh, vượt
khỏi định mệnh tàn ác để tồn tại, tồn tại trong tự do chỉ riêng một lần trong đời
cảm thấy khi từ bỏ tài sản cuối đời băng mình đi dưới trời đại pháo. Chỉ vì muốn
sống tự do người dân An Lộc mới bất chấp tất cả, mới vượt qua tất cả, đi trên
cái chết, trong cái chết để thể hiện ý hướng trừu tượng mà suốt đời dài không một
lần lý luận. An Lộc dũng cảm kiên cường đứng vững chắc trên điêu tàn, vĩ đại
như ánh lửa soi đường cho cả dân tộc. để lịch sử mãi ghi nhớ, lòng người hằn in
sâu. An Lộc, cây cổ thụ quê hương còn lại sau cơn Đại Hồng Thủy máu lửa. Người
Miền Nam nhìn An Lộc như tấm gương soi rõ chân dung bình lặng cao cả của mình.
Và chiến trường này cũng có đủ mặt trái của nó. Đó là một chiến
trường phi nhân, vô lý và tuyệt vọng. Chiến trường hư không. Chiến trường chết,
mồ chôn ảo vọng và bạo ngược. Người cộng sản hứng hết mặt trái khốc liệt này.
Bỏ đi những sự kiện chiến thuật như Bắc quân đã có đủ ưu thế chiến
trường, gần hậu cần, hành lang chuyển quân rộng rãi, dễ di chuyển, ngụy trang tốt,
tiếp vận, tiếp liệu đầy đủ và nhất là được yểm trợ bởi một hỏa lực khủng khiếp,
một hỏa lực vượt hẳn mọi hỏa lực bộ binh dã sử dụng của quân sử thế giới. So với
Mậu Thân, Hạ Lào, chiến trường Trị-Thiên, Kontum... An Lộc vượt quá xa về hỏa lực.
Không có một trận địa pháo nào dồn dập và nặng nề như trên chiến trường nhỏ bé
An Lộc. Sẽ không bao giờ có nữa, chắc chắn như thế. Nhưng dù đã có được hết ưu
thế chiến thuật, ba công trường 5, 7, 9, được tăng cường hai trung đoàn chiến
xa 202 và 203, cộng quân vẫn không “dứt điểm” An Lộc. Mặc dù cho đến hôm nay
khi viết những chữ này (20-6-72), địch vẫn còn hoạt động mạnh tại Tầu Ô, Đức
Vinh và An Lộc còn nằm trong vùng hỏa tập tiên liệu của hai hướng pháo Tây-Bắc,
Đông-Nam. Nhưng mục tiêu chiến thuật (nhấn mạnh nghĩa chiến thuật) của chiến dịch
đã bị gãy đổ. Hoàn toàn gẫy đổ.
Nhưng, mặt trái chiến trường cũng không phải ở lần thất bại quân
sự này. Mặt trái chính là lần tan vỡ “huyền thoại không tưởng” về bộ binh Bắc
Việt. Bởi nơi đây đã minh chứng, không hề trên mặt trận lại có một loại lính
năng lực tác chiến xuống thấp đến thế. Khả năng tác chiến kém có thể do vì thiếu
huấn luyện, thực tập, chưa đủ kinh nghiệm trận địa... Nhưng ở đây, yếu tố chính
để kết nên căn bản cho toàn bộ yếu kém này là tinh thần Bắc quân: Khối hư không
thất vọng và chán nản cao độ. Ở mặt trận Trị-Thiên, binh sĩ Bắc Việt khi vượt
sông Bến Hải tràn xuống Đông Hà, Quảng Trị dù sao vẫn còn mang được tâm lý Đánh
trên quê hương, nơi đất nhà, vùng thổ ngơi còn dính líu với Miền Bắc. Họ lại được
thúc đẩy thêm “ý niệm đi giải phóng, chiếm đóng” cộng sự hận thù đối với dân
chúng Miền Nam, nhất là dân cư ở các thị trấn, thành phố. Tâm lý này còn nguyên
cường độ nên khi vào Quảng Trị, toán lính Bắc quân vẫn giữ được tính chất cực
đoan, cường bạo để thúc dục tinh thần và nâng cao khả năng tác chiến - Khả năng
giết dân và quân dân Miền Nam.Ở chiến trường Kontum, tuy trải qua một chặng đường
dài di chuyển, lại chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, tinh thần Bắc quân vẫn
chưa hẳn hoàn toàn tan vỡ vì các trận đánh ở dãy cao độ Delta, Charlie, Hotel
phía tây Quốc Lộ 14, ở đèo Chu Pao không có sự hiện diện của dân. Đánh trong rừng,
người lính khai triển tối đa khả năng chém giết, không bị ghê tay bởi những cảm
giác ân hận, lỡ lầm. Nhưng ở An Lộc thì khác hẳn, Bắc quân từ mật khu bôn tập về
mục tiêu màdân nhiều hơn lính- Dân dáo dác, sợ hãi, trốn lánh và chết thảm...
Lòng người nào trong cuối đáy không thoáng ân hận khi chính tay mình hạ sát kẻ
tay không?! Thêm vào đấy, các công trường 5, 7, 9 chỉ là chỉ danh của các sư
đoàn “mặt trận” có cán bộ và lính người Nam xen kẽ cùng những người từ phương Bắc
đến. So sánh đã xẩy ra, chuyện trò sẽ tỏ rõ, lính Bắc nhận được chân dung đích
thực của mình, biết rõ hành động phi lý khi rời bỏ quê hương từ một chốn mịt
mùng để dấn thân vào cuộc chiến tuyệt vọng.Tuổi 15, 16, 17 rất dễ bị kích thích
nhưng cũng mau mắn ngã lòng - Số tuổi trung trực, nhạy cảm và thơ ngây. Lính Bắc
ở mặt trận này bị phá vỡ toàn diện hệ thống tinh thần vì chiến trường lộ mặt:
Hàng ngày dân chúng vượt qua “bãi pháo” qua Xa Trạch, Tầu Ô... vượt nỗi chết để
chạy về phía lính Cộng Hoà... Tất cả thực tế nầy như cánh tay nghiêng ly nước
lã đầy. Lính Bắc vỡ mặt, thấy mình kẹt trong chiến trường phi nghĩa, vô nhân đạo.
Nhưng quả muộn màn vì cổ đã bị xiềng vào đồng đội... Giờ báo tử cho bộ binh Bắc
Việt đã điểm.
Chương 13: Trị Thiên
Đất vinh danh cho người,
..Nếu được hành quân tái chiếm Quảng Trị tôi sẽ cúng một con
heo. Một người lính Sư Đoàn 1 đã nói như thế.Không phải câu nói chơi, phút bốc
đồng nhưng là tình cảm mãnh liệt tha thiết được diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị,
chơn chất.Giữa đất và người không còn biên giới, người lính không nhìn các địa
danh : Cam Lộ, Hương Hóa, Trị Bưu, Phong Điền, An Lỗ như những mục tiêu quân sự,
chốn không hồn mà nhiệm vụ bắt buộc phải đi đến trong một thời gian và sau đó đợi
chờ từng ngày qua để trút đi dửng dưng lạnh nhạt.Đất và người gắn bó không giải
thích được bằng lý luận, chỉ cảm thấy bàng bạc mơ hồ, chứng nghiệm bởi một trực
giác ngây ngất ... Và không riêng cho người lính sanh trưởng vùng Thừa Thiên,
quảng trị.Những người khác, những sĩ quan, trung sĩ, binh nhì sinh trưởng ở Bắc,
Nam thuộc các đơn vị tổng trừ bị, hành quân tăng phái đến, bước chân đến vùng địa
đầu đất nước lòng bổng nhiên chùng xuống trong xúc động lạ lùng ... Nhiệm vụ
hành quân không được nhìn thuần túy như một công tác quân sự có tính cách bắt
buộc, hành quân vùng Thừa Thiên, Quảng Trị âm vang mênh mông, tính chất cuộc viễn
chinh thánh chiến, đấu tranh giữ đất, giữ nước, đấu tranh cho một lẽ sống
còn.Chiến đấu ở miền giới tuyến hào hùng như bước chân qua một bờ lịch sử.Tương
lai dân tộc được quyết định qua vùng đất này.
Đây không phải là một cảm xúc quá độ được tăng thêm cường lực để
làm dáng trong văn hương nhưng đã đi lính, đội nón sắt, mặc áo giáp, nhảy trực
thăng xuống Khe sanh đổ quân trên các mỏm Động Thông, Động Gió, đã di chuyển
theo giòng Tam Giang, qua Túy Vân lúc sương còn mờ trên đầm Thủy Tú hay ngược
phía Bắc để đi vào vùng Phong Điền, Đại Lộc, Phá giăng giăng mưa bụi, trăng non
soi ánh sáng bạc thếch, ánh sáng chết trên mặt nước lăn lăn sóng nhỏ, thôn xóm
xa lặng trong bóng tối, nghe trong lòng cơn ào ạt xúc cảm, thấy rộn rã từng ạt
rung động trên làn da - Đất linh thiêng, huyền bí bao trùm vây bọc, con người
trong đó thấy tan biến, hòa hợp vào cùng từng ngọn cỏ, cơn gió, người thấy đau,
đau rõ ràng nhưnhức buốt như vạch xanh của sông Bến Hải vạch đường độc địa trên
bờ cát thênh thang - Đất và người cùng đau với vết thương quê hương.
Cảm giác trên đã thành hình, đã gây nên phản ứng sinh lý làm dựng
sợi lông tay cảm xúc nhưng có thể không được phân tích, không được rọi nhìn, định
lượng, người lính “thấy” ràng buộc, thấy mơ hồ, lãng đãng nhưng chắc chắn, cần
thiết như không khí hít vào trong mỗi cử động.
Trị-Thiên, ngoài đất còn có người, người Huế, người Quảng Trị,
người ăn cơm ghé sắn, người uống nước “chè” nấu bằng lá ổi, người gọi lính bằng
“anh cộng hòa ơi ...” Những người đã mừng rỡ đến ngất xỉu sau mười, mười lăm
ngày dưới hầm sâu, nhịn đói nhịn khát, đại tiện, tiểu tiện và ngủ trên cùng chiếc
chiếu như trong mùa xuân Mậu Thân khi nghe ngoài đường phố tiếng lách cách của
báng súng đập vào đùi khi người lính di chuyển. Lính Cộng Hòa tới! Lính Cộng
Hòa tới!Người dân hé cửa nhìn: Trên đường phố vắng, hai hàng lính đi song song ở
lề đường, đội hình, y phục hoa của Biệt Động Quân hay Thủy Quân Lục Chiến ...
Lính Cộng Hòa bà con ơi !!Sống rồi bà con ơi !! Ông già, ngườitrẻ, công chức, cảnh
sát mở toang cửa ào ra đường... Mừng quá mấy anh ơi, mừng quá !!Mấy anh ở đây
luôn hả ??Uống nước không?Những người lính từ miền Nam ra bị vây kín bởi một nồng
nhiệt bốc lửa.Họ là điểm sống cho thành phố Huế đã đến đáy hấp hối và tuyệt vọng.Còn
vinh quang đẹp đẽ nào cho bằng tiếng kêu mừng rỡ của người dân Huế trong mùa xuân
đỏ lửa khi được sống gởi đến những người lính xa lạ phong trần.
Đấy là những sự kiện của mùa xuân năm xưa. Bây giờ, tháng thứ ba
của ngày Bắc quân mở cuộc đại tấn công và Miền Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên, hai
thành phố đầu tiên hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn và người dân của hai
thành phố này lại thêm một lần tay bế con, lưng cõng cha mẹ già xuôi theo Đường
Số I dưới che chở độc nhất hay niềm tin cuối cùng - Người lính- Bộ đội cộng hòa
ơi, cứu bà con, bộ đội cộng hòa ơi! Trên đoạn đường máu Quảng Trị, Hải Lăng, Mỹ
Chánh không phải một người, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi
lên như thế một lần. Gọi bằng hơi thở cuối, mồm há hốc, mắt trợn đứng, gọi khi
máu chảy, khi nằm xuốngtan vỡ, tay lần trên chuỗi Thánh Giá, mắt nhắm nghiền,
trên đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi, nổ tàn ác... Đạn nổ không
bỏ sót một phần đất, không quên một thân người ... Bộ đội Cộng Hòa ơi !Người
dân lại một lần kêu to lên như thế. Vinh quang biết mấy cho người lính Việt
Nam.
Đất không Vinh Quang riêng cho Lính, đất còn là Thánh Địa cho
Người. Người tầm thường, người còm cõi, người quắt queo khô héo như nhánh “nè”
(1) khô rốc tong teo, lay động dật dờ dưới cơn nắng hạ chí. Nhưng những người tội
nghiệp, tàn tệ, răng đen, môi nẻ tóc rối, người mà tai ương đã hiển hiện lên giọng
nói, bất hạnh đã đặt mầm ở tiếng “khóc kể” bi ai hờn oán. Bất hạnh cũng đã có
“điềm” ở giọng hò thê thiết đến rợn da khi những con thuyền chập chùng trong
bóng tối lướt thướt trên sóng qua Bảng Lảng, Ngô Xá, La Vân, La Chữ, Vân Trình.a
... ơ ... chỉ hai tiếng nhỏ con thuyền đi hết khúc sông mà âm thanh còn lộng
trong gió ... Đã có “điềm” rồi nên dân Trị Thiên dù không cơm, không gia, không
nương, rẫy bái vẫn tồn tại và sống còn.Họ sống bằng gì và như thế nào ?Chuyển hết
tháng ngày đi quakhông cũng đủ là một việc vĩ đại ... Rất vĩ đại ... Rồi ba
tháng máu lửa này, chui dưới hầm, ăn khoai sống, hứng chịu ngàn trái đạn của
hai bên ... Ngày Hải Lăng vừa được quân ta tái chiếm, đồ đạc cho vào thúng sau,
thằng con ngồi thúng trước, người đàn bà nhỏ quắt queo gánh “gánh đời” đi thoăn
thoắt trên mặt cát trắng bầy nhầy lớp thịt người ... Người trị Thiên có “tài”
đi nhanh nhưthế đã bao năm ??Có anh phóng viên đài truyền hình chận hỏi :
- Chồng và mấy đứa con lớn đâu ?
- Chết hết rồi ... Họ đem đi băm, vằm, chém nát, chôn sấp dập ngửa
mô không biết !!!
- Bây giờ bà đi đâu ?
- Hí ? Người đàn bà nhà quê không hiểu câu hỏi.
Cho dù hiểu đi nữa thì bà ta cũng không biết đi đâu ... Quo
vadis ? Mày đi đâu ? Chúa có hỏi đi chăng nữa người cũng không trả lời được ...
Đi đâu? Ngày đã hết, đời đã hết, chỉ còn mỗi con người lừng lững cùng nỗi đau đớn
mịt mùng hư không
Chương 14: Về Quê Hương Điêu Tàn,
Phi cơ đến Huế lúc một giờ sáng tắt đèn từ trên cao khi lấy hướng
đáp, thấp xuống, thấp xuống chút nữa, trên một độ cao cần thiết, đèn ở cánh được
bật cháy, chúi xuống và bánh chạm đất, đèn lại tắt.Không một phi trường nào im
lặng và tăm tối bằng.Phòng tối, ngổn ngang lính nằm, những người lính tóc rối
và râu rậm, họ ngủ mệt nhọc và trăn trở, giấc ngủ đứt khoảng khi có tiếng động
của bước chân đi đến dù tiếng động cực nhỏ, những đôi mắt đỏ hoe mở ra xong
khép lại.Gần trăm con người không ngủ, họ chỉ nhắm mắt và nằm ... Ngủ, hình như
họ đánh mất sự nghỉ ngơi này, mất đã lâu, từ hơn hai tháng trên các căn cứ võ Định,
Diên Bình dọc quốc lộ 14.Ngủ chỉ là trạng thái chập chờn của đôi mắt khép lại
nhưng tai lắng nghe ... Nghe tiếng nổ hoặc tiếng départ của pháo nơi xa ...
Chẳng có vẻ gì để gọi là chiến tranh loạn lạc và điêu linh nơi
chúng tôi đang đứng trong buổi sáng đầy nắng vàng và gió từ sông mang hơi nước
dịu nhạt bay đến.Xóm Mỹ Chánh đổ nát vì vụ dội bom lầm hôm mồng 5 khúat sau rặng
tre, chiếc cầu gỗ cháy từ bao ngày trước còn bốc khói, nhịp cầu sắt bị đổ xuống
không đủ cường độ để gợi lên không khí bi thảm của trận chiến vừa xẩy ra cách
đây mười ngày trên con đường nhựa bên kia sông, nơi bãi cát đìu hiu lặng đứng
những khóm tre còm cọi ... Những tang thương trầm thống của những ngày qua tan
byến trong ánh nắng đẹp đẽ vàng rực của buổi sớm mai này.có tiếng chim cu gáy ở
bên kia sông, tiếng chim mộc mạc ấm áp như giọng cười khúc khích của đứa trẻ.
- Đấy, toa thấy cái lũy tre ở đầu con sông nơi chỗ quanh của con
sông không? Liễn chỉ tay về hướng đông, nơi con sông quanh một vòng thật đẹp để
đổ vào phá Tam Giang.
- Ờ, tôi thấy rồi, chỗ đó tôi đã đóng quân.Làng nội tôi đấy,
làng Vân Trình, tên nghe hay không, mỗi vụ hè tôi về đây chơi, năm mười tuổi đã
lội qua sông này được ... Hai mươi năm sau cho bạc triệu tôi cũng không qua được
bên kia một mình.
- Ừ.Tôi lơ đãng nhìn theo con sông, nơi này mùa đông xưa tôi đứng
trên bờ đợi Mễ cởi áo bơi qua sông mua rượu, phía trái nơi xa có bãi đất bồi thửa
ruộng, bắp lên những lá xanh ngắt ...
- Người miền Trung cực quá, không đủ đất trồng lúa, có chút đất
bồi là bám vào ngayBa mươi cây số từ núi ra biển không có chút đất màu, toàn
cát và cát, cằn cỗi xám xịt không như cát vùng Nha Trang, Cam Ranh.
Súng nổ sát bờ sông, súng nhỏ, Bộ Binh Bắc quân mở đường, đánh
thăm dò ... Chúng trở về nơi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Phúa đang báo cáo với Lữ
Đoàn.
- Đó là tiền phương bộ binh của tụi nó xuống quan sát mình, chẳng
hiểu nó bắn súng cối và 57 như vậy để làm gì ?C ... Mày gọi pháo binh làm mười
tràng vào nơi yếu tố mà toán viễn thám ghi nhận tiếng départ.Phúc nói với Tiền,
sĩ quan ban 3.
Pháo từ Phong Điền rơi lên ào ạt.Bắc quân ngưng tác xạ, họ xuống
hầm hay đã bị chết, không biết được, những đám bụi do đạn nổ bốc lên tan đi thật
nhanh, chỉ còn luồng khói đen cuồng cuộn bốc cao.Một ngôi nhà bị cháy.Có tiếng
gắt của anh Phúc : “ Tụi nó đặt súng ở đấy thì xin bắn ở đấy, làm sao biết viễn
thám đêm vừa rồi có ngửi đúng hay không ?Tiên sư có vợ, bị cặm sừng cũng đếch
biết nữa là ...” Anh ném cái ống liên hợp vào một góc nhà tụt xuống hầm chỉ huy
xỏ chân vào đôi dép đi vào nhà thờ ...
Đường về, trời nắng gió im buổi trưa mùa hè miền Trung bốc cháy
toàn thể cảnh vật, núi im lìm rung rinh sau lớp hơi đá mờ nhạt, người lính bị
thương ngồi băng sau gác bàn chân sưng đỏ máu đẫm ướt cuộn băng bày.Qua Phong
Điền, xe bị kẹt, ngừng lại dưới tàng cây nhìn Pháo binh TQLC di chuyển cho cuộc
hành quân đang khai diễn. Họ nhìn tôi tò mò, áo lính Nhẩy Dù đi xe TQLC, tóc
dài và chiếc máy ảnh ở ngực ... Tôi trông chẳng giống ai !Tôi cũng biết thế nên
lúng túng đưa máy hình lên chụp loạn xạ.Ôi tôi hành nghề báo.Có một điều gì buồn
buồn trong thân.
Mỹ Chánh không có gì, quả thật vậy, tôi về Sài Gòn, thay lớp áo
quần dơ và ướt, uống ly rượu có đá lạnh, chạnh nhớ những người bạn ở nơi xa
đang ao ước một tờ báo, dù tờ báo đã cũtừ ngày 30 tháng Tư ... Điều này làm
lòng tan vỡ, những người sống trên khổ nhọc miệt mài, trong núi xanh, trên cồn
cát, những “sinh vật” lính quen thuộc và thân ái bị quay cuồng níu kéo hoài vào
gian nguy triền miên ... Không phải chỉ có ở Mỹ Chánh với Trâu Điên, nhưng khắp
cùng đất nước, từ núi cao xuống đồng bằng, có đủ trên mỗi phần đất của quê
hương.Mỹ Chánh không có gì ngoài hai xác chết bên kia sông cạnh chiếc xe tăng bị
cháy, tiếng nổ B52ầm vang đều đặn và núi rung rinh, cây cầu bốc khói xám. Những
người và cảnh chết này có nổi yên nghỉ riêng, lòng có xốn xang là hình ảnh người
lính mang dép Nhật, chống cây gậy đi trên thôn xóm tan vỡ, người lính không đầy
20 tuổi ... Em bị thương !Chỉ còn tiếng nói và hình ảnh đó đè nặng ở đỉnh đầu,
tay tôi run và nặng khi viết những dòng chữ vô nghĩa này.
Quả bom chiến lược hay viên đạn súng colt chỉ gây một tiếng nổ,
cũng chỉ viết thành “một chữ” trên trang giấy, nhưng trầm thống của con người
thì mênh mông.Chữ nghĩa vô tri viết được mấy cho vừa.
Chương 15: Bay Trong Hoàng Hôn
Tàu không bay thẳng ra đèo Hải Vân, nhưng bay dọc theo bờ biển
ra Nam Ô.Trời đã chiều, nắng hết chỉ còn “dư âm” của ánh vàng trên cây cỏ.Từ
trên cao nhìn xuống, biển Thanh Bình ngày nào không còn nữa, nhà lấn ra sát mặt
nước,nước xanh đục lợn cợn rác, bọt vàng của rêu và chất dơ.Hết cả rồi, chốn
xưa, ngày mới lớn, đêm hè trong vắt lấp lánh sao, nửa đêm về sáng ngồi dậy đốt
vỏ bánh xe nhìn ánh lửa, nhìn đại dương, nhìn Tiên Sa đen thẫm cùng Hải Vân
vòng đường kín đặc, vòng núi hở một khoảng ở hải đăng để thấy biển phía xa xanh
xao dưới ánh trăng non.Mơ ước gì trong đầu óc tươi trẻ đó ?Không biết, chỉ thấy
lòng mênh mông thênh thang bay lên tiếng hát âm thầm phơi phới.Hết, chiều nay
trên độ cao gió lạnh nhìn xuống biển xưa vấy bẩn và lòng nặng trĩu nặng phiền
phiền.Máy bay dọc theo biển để thấy rừng dương ở Nam Ô xơ xác, trơ rụi.Ôi khu rừng
thơ mộng của ta mười bốn năm trước thế này sao.Rừng không còn, chỉ còn khu vườn
dương liễu cằn cỗi, bờ cát vàng dốc đứng nay cũng thấp xuống tan hoang ...
Không còn gì nữa, quả thật không còn gì nữa, như tuổi thanh xuân đã mờ khuất
đi.Qua núi Nam Ô để thấy lại bóng mẹ xõa tóc ngồi hong nắng ... “Mẹ con mình là
người đầu tiên ở Đà Nẵng đến tắm ở đây ...” Mẹ đã nói thế để khích lòng “giang
hồ vặt” của con trai.Đà Nẵng - Nam Ô 10 cây số đường dài quá xa cho một tuổi mới
lớn.
Năm phút máy bay đủ đi hết một quãng đời niên thiếu, mau thật.Tôi
tưởng như vừa qua lớp mộng dài.
Gió lạnh, phi cơ đã đâm thẳng ra biển để vượt Hải Vân, đỉnh núi
bên trái phủ mây trắng, đường nhựa ở trên, đường xe lửa ở dưới, thấy rõ trước mắt
hình ảnh đứa nhỏ tóc bay đưa chiếc đầu ra khỏi cửa sổ thành tàu nhìn xuống đại
dương đen ồn tiếng sóng, sóng bạc đầu xô đẩy vào rà.Sâu hun hút, tưởng dưới xa
như là chốn nghìn trùng không đến được ... Sửa lại thế ngồi đỡ mỏi chân, cong
hai đầu gối sát ngực cho bớt lạnh.Lại giống hình ảnh đứa bé đêm trừ tịch năm
nào ngồi co ro trong một chiếc xe hàng trên đỉnh đèo sương phủ và gió rét.Tôi sống
torng hai thế giới, trong hai chốn thời gian lúc trực thăng đổicao độ vượt đèo
... Mình là ai ?Đi đâu ? Mong ước gì ?Hơn mười năm chưa thấy rõ mình.Đời khó thật.
Trời vẫn còn sáng trên không, thứ ánh sáng mờ mờ của bóng tối sắp
đến, xuống ở độ thấp 100 thước.100 th. để thấy rõ từng nếp nếp nhà, sân đất, giậu
tre và những cánh đồng xanh.quê hương bình yên và đẹp vô ngần trong ánh sáng cuối
cùng của một ngày.Đầm Thủy Tú lăn tăn sóng nhỏ trẻi dài như một thỏi kim cương
xanh.Đầm mênh mông lặng lẽ dạt những vòng tròn xôn xao khi trực thăng bay qua,
núi Túy Vân ấn một nét đen đậm dịu dàng trên không gian và mặt hồ xám bạc.Túy
Vân Sơn, tưởng tượng đến hình ảnh ngày xưa đoàn thuyền lộng lẫy của Hoàng Gia
trôi theo giòng nước đến nơi này neo bến và tiếng chuông cuối ngày lồng lộng
trên sóng nhỏ tan dần vào hư không.Chiến tranh mệt mỏi của ngày dài di chuyển
tan nhanh như sương mỏng, tôi mở to hai mắt, dựng đứng hết xúc cảm để nhìn hết,
lấy hết toàn khối quê hương đang nằm dài yên lặng dưới xa - Không thể có nơi
nào đẹp hơn quê hương ta !Câu nói của cuốn sách thơ ấu được lập lại không định
trước.Phải, quê hương ta quá đẹp, vẻ đẹp mộc mạc, bình lặng cao cả, quê hương
là thiên nhiên cô đọng, quê hương tan biến hòa hợp vào cùng vũ trụ.Núi không
cao, đầm không rộng, nhà mái tranh, con đò nan mảnh mai trôi lững lờ trên sóng
nước hiền hòa, khuôn đất nhỏ vàng nhạt, từ trên cao vẫn tưởng được độ cứng và vẻ
bóng bẩy phẳng lặng in từng đường chổi mới quét qua ... Quê hương thương yêu nồng
nàn dưới đó, dưới độ cao 100 thước, trên lưng đàn trâu về chuồng, cong đôi sừng
nghếch khuôn mặt chịu đựng, giương đôi mắt võ vàng nhìn tiếng động trên
không.Lòng bồi hồi run rẩy như vừa qua khỏi chốn linh thiêng ... Bao nhiêu phần
đất của quê hương còn đượm vẻ thanh bình này ?Chắc còn rất ít, hay chỉ còn lại
trên ảnh trên tranh, trong trí tưởng, trong ao ước ... Vì khi máy bay vừa đến
Huế, nhận được lệnh di tản thương binh, phi hành đoàn chỉ kịp và vội miếng cơm,
lấy tọa độ bãi đáp và tầng số làm việc, bay liền hướng Hương Điền dọc Phá Tam
Giang.Tiểu đoàn 6 và 8 TQLC vừa đụng trận.
Trời sập tối, cảnh vật xanh xanh xám xám, chút sương mờ đã dâng
lên từ mặt nước.trực thăng qua La Vân, Hương Cổ, Quảng Điền, những nơi chốn quá
quen byết bao nhiêu lần xuôi ngược trên bờ lúa dọc con sông xanh thẫm lác đác
những lá tre già.Tàu vượt Phá Tam Giang - A! Lại một chốn xưa huyền bí - Phá
mông mênh bí mật u trầm, phá xôn xao chuyển dịch những lượn sóng xuôi ngược,
phá nồng nàn say sưa như tuổi nhỏ khi đọc đến câu “Yêu em anh cũng muốn vô.Sợ
truông nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang.”Vật biểu lượng ngăn trở tình yêu là đây, tôi
nhớ lại được nỗi rung động náo nức của tuổi mới lớn.. Nhưng bỗng nhiên như luồng
sét thật mạnh đánh sát mặt, như kẻ bị phụ tình trong giờ khắc say đắm nhất, tàu
đã bỏ mặt nước xanh để bay lên vùng cát trắng.Tôi lao đao như từ ánh sáng vào
bóng tối, tôi tóe lửa ngộp ngộp hơi thở như gió thổi mạnh đập vào mặt.Nỗi mơ mộng
tan vỡ, vỡ bùng không còn chút níu kéo.tôi đang bay trên một quê hương điêu
linh, không thể trốn chạy được ... Lũy tre xanh, bọt sóng đầm xô đẩy, núi Túy
Vân lặng lẽ, mảnh vườn đất phẳng, nụ cười sáng, bàn tay vẫn trên đồng xanh
không có giá trị gì nữa.Quê hương đẹp đó quá ít, quê hương này, quê hương dưới
chân, trên cát trắng quê hương trải dài theo biển từ Thế Chí, Đại Lộc qua Mỹ Thủy,
Triệu Phong mới thật sự điển hình cho tàn tạ, tàn tạ tuyệt vọng câm nín của những
“ổ” nhà nằm rải dài trên 30 cây số ngút ngàn lặng lẽ.Ba mươi cây số không nhà,
chỉ độc một chuỗi ổ chuột sùm sụp ép mình trên cát, chơ vơ thụ động dưới mưa
bom và đại bác - Tội quá trời ơi, năm xưa 1967, khi qua vùng này đã phải cúi
mình xuống làm đôi để nhìn một gia đình một mẹ năm con ngồi ôm lấy nhau dưới
mái lá như vượn mẹ bồng con ngồi co mình nhìn lũ người cay độc ... Bao ngày
qua, đời sống dưới mái lá đó càng thêm độ thê thảm.Không đồng lúa, không nghề
chài, họ ăn gì, lấy gì để sống qua hằng hằng tháng ngày tân toan, rồi lại thêm
bom rơi đạn rớt, bom đạn không phải chỈ một cơn một lúc nhưng phủ đầu và ngập mặt.Trước
1967 đến bây giờ là bao lâu ?Còn con người chăng trên bãi cát trắng dưới những
“ổ” lá nằm rải rác trên dải quê hương điêu tàn đó ?Có đàn lợn đi lang thang
trên bờ biển, loài thú tầm thường bình yên, không thích hợp với hùng vĩ của đại
dương chạy tán loạn khi nghe động cơ vang nổ ... Chữ Gia của tiếng Hán đuọc biểu
tượng bởi một mái nhà dưới có chữ Thỉ - Trên giải đất không nhà này đâu còn nơi
nương náu cho loài thú tội nghiệp kia - Người sống làm sao được trong tan nát
này hả trời ?Câu hỏi buồn cười tội nghiệp vang âm thầm làm nhói cơn đau nhức nhức
ở nơi ngực.
Không thể gọi là “dãy phố buồn hiu” nhưng phải gọi “dãy quê
hương thê thảm,” cũng chưa đủ
Chương 16: Dậy Đường Tử Khí
Không khí tàn tạ của vùng Mỹ Thủy, Hương Điền, vẻ đau đớn lạnh cứng
của xác người lính Thủy Quân Lục Chiến Tiểu Đoàn 8 khi gió thổi lớp Poncho dán
chặt vào mặc để lộ chiếc đầu tròn sống mũi thẳng, năm ngón tay tái xanh có những
móng dài đầy đất của tối hôm qua trên trực thăng không còn nghĩa lý gì so với cảnh
tượng trước mặt.
Tôi đang ở trên cây số 9 từ Quảng Trị kể đến, vùng thôn Mai Đẳng,
xã Hải Lăng..Không thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước
cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù
răng vỡ, môi chảy máu tươi, tay luống cuống, mắt mờ nhạt, mũi phập phồng.Không
có thể biết gì về thân thể đang mở ra trước sự tàn khốc trước mặt.Trời ơi !
Hình như có tiếng kêu mơ hồ dội ngược ở trong lồng ngực, trong cổ họng, nơi óc
não, hay chỉ là ảo giác của con người mất hết khả năng kiểm soát.Kiểm soát làm
sao được nhịp đập của quả tim, không ai ngăn cản cơn chớp liên hồi của đôi mắt,
tay nổi da gà, những sợi gân ở thái dương phồng lên đập xuống - Mệt, máu chảy
ngúc ngắc trăn trở lăn lóc khô khan khó nhọc trong những gân căng đến độ chót
... Cũng không phải như thế - Tôi không biết, hoàn toàn không biết được gì của
xác thân.
Tôi không còn là người đang sống, vì sống là sống cùng với người
sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống.Chung quanh tôi, trước mặt
chỉ còn một hiện tượng, một không khí - Chết.Phải, chỉ có sự chết bao trùm vây
cứng.Chỉ có nỗi chết đang phơi phới bừng bừng che kín không gian.
Đã sống trong cảnh chết của trận Đồng Xoài năm 65, trận Bình Giả
năm 64, đã nằm cùng, ngủ chung với xác chết qua một thời gian dài, nhưng bên cạnh
những nín lặng đau đớn của những cái chết này vẫn còn tiếng nói, tiếng động của
người sống dù là tiếng khóc vật vã, lời kể lể thống thiết của những người mặc đồ
tang lăn lộn trên xác chết đã sình chương mới được kéo về sau bẩy ngày tử trận.Những
cảnh chết còn không khí người sống, tôi chịu được - sự chịu đựng khốn mạt chỉ
có chiến tranh mới dạy được cho người.Và mới gần đây, An Lộc với những ngôi mộ
vô danh, mộ tập thể, những cái chết câm lặng đến độ chót của đau đớn kinh
hoàng, người cha trầm tĩnh đi tìm từng cái chân, cánh tay của năm đứa con vừa bị
tan thây vì quả đạn đại pháo, nhưng lại còn được một nấc chót - Bên cạnh người
chết vẫn có người sống - Người sống, dù với thể xác vô tri, đi đứng hcuyển dịch
như thứ người cuồng tín bi thảm - Người điên buồn, điên lặng, điên câm nín,
điên ở trong, điên chạy ngược, thấm đẫm, trĩu nặng từ tế bào thần kinh - Dù sao
cũng là Người Sống.Ở An Lộc, tôi còn thấy được loại người cuối đáy đau thương
đó.An Lộc lại quá nhỏ, chỉ hơn một cây số vuông, cái chết cô đặc lại, ngập cứng
vào người nhanh và gọn như nhát dao ngọt.Cái đau đến chớp mắt, người chưa kịp
chuẩn bị thì đã lún hẳn vào trong ... Tôi cũng chịu đựng nổi, gồng mình mà chịu,
chịu được như chiếc bóng căng phồng khí độc.
Ở đây, Giáp Hậu, Mai Đẳng, Hải Lâm thì khác hơn An Lộc một bậc,
hơn trên một tầng, tầng cao ngất chót vót, dài hơn An Lộc một chặng, dài hun
hút mênh mông.sự chết trên 9 cây số đường này là 9 cây số trời chết, đất chết,
chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi từng mảnh thịt, chết
từng cụm xương sống, đốt xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn
tay cong cong đen đúa ... Nhiều quá, 9 cây số hay 9000 thước, mỗi thước trung
bình hai bộ xương tung tóe, vậy tất cả là bao nhiêu?Chỉlấy con số trung bình vì
có chiếc xe hồng thập tự chổng bánh vỡ sườn để lộ những bàn chân đen thòng ra ở
cửa đằng sau ... Chiếc xe Honda gẫy đôi, còn xót lại hai đôi dép Nhật, người ở
đâu ?Không làm phân biệt được tay này, chân kia, đầu lâu người nọ ... Chiếc xe
công binh ủi một đường dài, những xác chết, không, phải nói những bó xương bị dồn
cùng áo quần, vật dụng, chạm vào nhau nghe lóc cóc, xào xạc, “đống rác” người
ùn ùn chuyển dịch, một chất nhờn đen đen ươn ướt lấp lánh trên mặt nhựa - nhựa
thịt người !!Trời nắng, đồng trắng, con đường im lìm, động cơ chiếc xe ủi đất -
phải gọi xe ủi người mới đúng - vang đều đều, hơi nắng bốc lên từng đường trên
mặt nhựa, hơi nặng mùi ... Vạn vật chết trong lòng ánh sáng.Ánh sáng có mùi người
Làm được gì bây giờ? Bịt mũi, che mồm, nhưng tất cả vô ích, hơi
chết đọng trên da, chui vào mũi, bám trên áo, hơi chết hít vào phổi trôi theo
máu. Tôi đang đứng trong lòng của sự chết.Tránh làm sao được, ai có thể ra khỏi
khối không khí của nơi sống?Những cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại
tập trung gây nên niềm bàng hoàng xúc động vì người chứng kiến thấy được “xác
người,” xác chồng chồng lớp lớp có thứ tự, gọn ghẽ nguyên vẹn... 9 cây số đường
chết của Quảng Trị không còn được quyền dùng danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết
tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng ... Chết trân tất cả mọi cái chết.Không
còn được “người chết” trên đoạn đường kinh khiếp đến tột độ của chốn quê hương
thê thảm.Giáp Hậu, Hải Lâm :Tên nhớ vào máu dù sau này tôi chết, ký ức cũng
không thể phôi phai ...Đã dùng hết tất cả chữ nghĩa có trong đầu, nhưng chưa đủ,
chắc rằng chưa thể đủ được, tôi điều tiết hết cả thần kinh để đón nhận, ghi nhớ
nhưng nhận không vừa, ghi không nổi ... Lòng bây giờ cũng như dây đàn đã đứt,
chỉ còn thoáng âm ba cứng đỏ mơ hồ không kìm giữa nỗi chết.Đau choáng váng, ngất
ngư dật dờ bởi thứ men chết dậy lên hừng hực như nắng sáng.
Pháo vẫn còn rơi ở phía trái con đường, rơi từng ba quả một, từ
vùng Tây Bắc đến, người lính Công Binh vẫn từ từ cho xe ủi “người,” tôi vẫn lặng
lẽ hút những hơi thuốc đắng.Nếu pháo nổ ở đây thêm hai xác người nữa thì có là
bao !Không gì lạ nếu tôi và người lính Công Binh này chết.Chẳng có nghĩa gì khi
thêm hai đầu lâu mới, bốn cánh tay, bốn bàn chân và ít ruột gan rơi rớt đẫm máu
văng trên mặt nhựa này ...Đúng như thế vì những đầu kia, tay nọ chắc cũng đã qua
một lần rung động, cũng có qua một vết kỷ niệm, một đời nồng nàn ước vọng, sung
sướng và hạnh phúc.Bây giờ còn gì nữa đâu trong chiếc sọ đen nâu dính chút thịt
nhão nát và lọn tóc khô rối rắm.Người đàn bà, sinh vật đã một lần yêu quý, đã một
lần thiên đàng rực sáng của tình yêu, là hạnh phúc mầu nhiệm của người mẹ
...Còn gì đâu trong chiếc sọ nồng thối lăn lóc nọ ?...Hết nơi cho Người, hết thật.Lọt
vào 9 cây số này con người đã hoàn toàn tận diệt, sinh vật người hoàn toàn tận
diệt. Hết, một chữ ngắn gọn để diễn tả cơn tan vỡ cùng cực ... Chỉ còn được mỗi
chữ này.
Chương 17: Cảm Giác Lạ
Xe ra khỏi, không, phải nói rằng đó chỉ là cảm giác tự đánh lừa
mình, vì không ai có thể ra khỏi được nỗi chết trùng vây kín.Đến La Vang thượng,
xuống đi bộ vào La Vang chính tòa, nơi bạn tôi, Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ.Hai
cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, tôi đi như người sống sót độc nhất sau
trận bão lửa đã đốt cháy hết loài người.
Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước
đi, gió mát và không khí thênh thang.Ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ
cọ từng ngón một - Tôi muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ? Có cảm giác lạ
:tôi vừa phạm tội, tôi được sống.Phải, tôi có cảm giác như chính mình vừa giết
người và dành quyền được sống, chính bàn tay này vừa tham dự vào trò tàn khốc
...Tôi nghĩ lộn xộn điều này nối lấy điều kia, hổ thẹn, uất ức, giận hờn, đau đớn
và ... vô tri giác.Tôi muốn “chửi” Tướng Giai.Dù có bị thôi thúc, ép buộc từ một
chiến lược nào đó ông ta cũng không thể bỏ Quảng Trị trong bất thần để đến nỗi
9 cây số đường kia phủ thịt người.tôi cũng muốn chửi Bắc Quân.Dù luật chiến đấu
là phải thắng, nhưng ai nỡ bóp cò để B40, B41, 75 ly sơn pháo, từ trên những
cao độ của Xuân Lâm, TrườngPhước, Trường Thọ (những tên gọi sao cay đắng) nổ
vào những “mục tiêu” xao xác - D0oàn người chạy loạn.Thắng trận ở đâu khi những
mục tiêu đau đớn đó ngã xuống ?Tội nghiệp, những người lính của Đại Đội 3 Quân
Y còn tưởng đến giá trị của chiếc cờ trắng chữ thập đỏ nên đã trương lá cờ thụ
động vô nghĩa để băng qua sự chết.Bắc quân, hình như anh đã không có tình người,
cạn tình người.Anh giải phóng cho ai khi đi giết con người ?Tôi muốn hỏi điều
đó, hỏi vang vang, hỏi bằng tiếng thét đến vỡ cổ, bật máu, tôi muốn hỏi tại sao
Người giết Người tỉnh táo và tàn tệ đến thế kia ? ... Từ nơi đặt sứng đến “mục
tiêu” không quá 1 cây số và gần nhất dưới 50 thước, anh không nghe tiếng thét
khi Người chết sao ? Tôi muốn hỏi người lính miền Bắc với hết cả thống hận
trong lòng.Căm thù nào trên người đàn bà tóc rối bế con chạy xôn xao giữa giòng
người tan nát ?Tôi muốn hỏi, hỏi ngàn lần, hỏi vạn lần người mang danh hiệu là
lính của Quân Đội Nhân Dân.Nhân Dân để gọi những ai ?Tôi muốn hỏi một triệu triệu
lần bằng tiếng thét vô hình nổ bùng trong đầu óc khi ngồi giữa cánh đồng trống.
Muốn cào mặt, đấm ngực, cắt da để máu chảy thành giòng, để nhìn
thấy mình cũng “được” đau đớn, chia sẻ.Tôi bất mãn với chính tôi trong trạng
thái ù lỳ vô tri khi giương mắt nhìn rõ chiếc sọ người tóc rối.Phải, tôi cũng
muốn chửi cả chính tôi, thật sự như thế ... Tôi cũng có tội, tôi cũng có tội đấy,
trời ơi!!
Đi vòng vòng ở sân của Vương Cung Thánh Đường, nhìn tượng thiên
thần, tượng Đức Mẹ, cây dương liễu cháy xám ... Những cảnh sắc và nơi chốn này
đối với tôi là kỷ niệm không phôi phai, nhưng bây giờ sau khiqua 9 cây số chết,
lòng cứng, não trơ, tôi đi xiêu vẹo ngả nghiêng trong lòng nắng và gió nồng ...
Ngửi và thấy toàn người chết.Trí óc không nghĩ được cái gì hơn ... Đi qua ngôi
nhà xưa khi mùa đông 66, 67, tôi, Thừa, Hổ và anh Bảo ngồi ghếch chân lên gốc
cây thông uống bia đá.Trời lạnh nhưng cũng phải uống nước đá, chúng tôi vừa ở
núi, nơi đầu sông Thạch Hãn rút ra, 15 ngày trong đó ... Bây giờ những bạn xưa
đã chết, tôi thì đang bị vây khốn trong một trời thống khổ, làm cái gì đây ?Còn
gác chuông của nhà ông Trùm họ đạo : Tôi nhớ căn nhà này có một cô gái, Hổ đã
trêu ghẹo cô ta một câu trước khi rút quân đi, Hổ chết đầu Xuân 68, cô gái bây
giờ ở đâu ?Hay cũng đã chết tan trong một vùng lửa đạn.Bước qua gạch ngói của
căn nhà đổ nát, tôi đến gác chuông kéo sợi dây, hai quả chuông quá nặng, phải
kéo bằng cả hai tay ... Kính ... coong ... Tiếng chuông âm u vang động ; vang
vào trong núi không nhỉ ?Nơi đây là một bình nguyên trùng điệp và Trường sơn
bao vây nơi xa ... Vắng vẻ quá !Tôi nói thật lớn cho chính mình nghe.Chẳng biết
nên làm gì ?Giật dây chuông thêm một lần nữa ...
Về theo chuyến tản thương, người thương binh nặng nhất chốc chốc
ứa chút máu hồng, bên cạnh, gã tù binh bị thương nằm mê man ...
- Tụi này cứng cổ lắm, bị thương nó nằm lì để bắt mình vác đi, đ
..m .. nó lại được nằm băng ca trong khi tui phải bò bằng cùi chỏ !! Anh lính bị
thương hai chân ngồi dựa thành xe chửa đổng ...
- Thôi, mình khá hơn tụi nó là chỗ này, lỡ cứu nó, cứu cho trót.
Tôi tìm đường nói cho anh lính khuây khỏa, quả tình cũng không tin được lời nói
của mình.Vì khi đi ngang căn nhà ở cạnh trụ sở xã Hải Lâm, nhìn cảnh người đàn
bà ngồi “tước” từng sợi thịt ra khỏi xương người chồng.Người vợ ngồi kẹp đầugiữa
hai gối, tước từng sợi thịt đã nâu đen nhão nát trên xương ống tay và chân ...
Bà ta dùng bàn tay “xoa” lên trên lớp xương sọ, vừa để đuổi kiến vừa để tẩy phần
da ươn ướt mòng dính vào khối xương mũi, động tác bình thản thân ái như người vợ
trong khi âu yếm tay lên mặt chồng.Ôn ơi là Ôn ơi !! Tiếng khóc nhức nhối than
van gầm gừ trong cổ họng như đánh nhịp khi người vợ “nắm” đầu người chồng lên bằng
hai ngón tay thọc vào ổ mắt “rảy” cho hết kyến !Tôi biết gã tù binh nghe nhưng
cố lờ, gã ngủ trên suốt đường di tản mặt bạnh ra khiêu khích.Người lính của ta
có thù hận một chút cũng không sao.Có điều không công bằng giữa hai phe lâm chiến,
lính ta đánh giặc không thù hận, tôi biết điều này vì tôi cũng là một lính tác
chiến.
Trên xe ra phi trường nghe câu chuyện của hai vợ chồng già quá
giang ở băng sau, tôi chợt khám phá ra mọt điều : Dân chúng vùng Thừa Thiên, Quảng
Trị đã sửa soạn đón chờ tàn khốc qua tiếng nói.Họ không nói, nhưng than vãn, kể
lể, rên xiết.Nỗi oan khiên vô hình chập chùng trên mỗi âm, mỗi chữ, cách lên xuống
của từng câu.Không nói quá đáng, từ lâu, đã cảm thấy nhưng chưa kyểm chứng cho
đến hôm nay ba thàng mười ngày, lại một số lượng thời gian bí nhiệm mà người
Trungcứ mãi nhắc tới, tức là 100 ngày của trận chiến cuối mùa, 3 mặt trận : An
Lộc, Kontum, trị Thiên đều cùng có một mẫu số chung : Dân Trị Thiên là nạn nhân
đa số.Vì dân cạo mủ ở an Lộc, người dinh điền ở Kontum cũng là những di dân Quảng
Trị.Thậm chí ở chiến trường Bình Giả, số lớn nạn nhân cũng không ai ngoài những
người dân vừa mới di cư từ Cam Lộ, Khe Sanh vào ... Thôi đó là tai ương tiền định,
Trị Thiên còn là Câu Ô, xứ sở của người Chàm mà người Trung gọi là Hời.Âm thanh
sao nghe qua thê thiết, oán hờn, rồi lại còn giọng hò nữa ... Ai đã đứng ở bờ
sông Bồ (chảy qua An Lỗ)sông Thư Rơi (Mỹ Chánh), sông Hương nghe giọng hò cất
lên từ những khoang đò khi chiều vào tối mới hiểu được vì sao có những quê
hương cứ mãi tàn tạ, oán hờn ... Định mệnh đã xếp đặtthế.Chì còn lời này để an ủi
kiếp đắng cay.
Chương 18: Người Lính Viet Nam
Một nhiệm mầu
Chiến trận vẫn tiếp diễn, tôi lại bị kẹt trong một guồng máy tầm
thường hèn mọn, phải bị trói chân, buộc tay, hằng ngày dẫn một Đại Đội Địa
Phương Quân đi chặt ô rô, cóc kèn, dừa nước, phải liên lạc, nhận lệnh từ những
sĩ quan đặc ước cựu binh sĩ, Hạ sĩ quan của quân đội thuộc địa, những “cấp chỉ
huy” sáng giá, những Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng mà chủ đích của công việc là làm
sao “vồ” được một số tiền trước khi đổi đời, lộn giống ... Trong tầm thường cay
đắng này, tôi cứng người vì hổ thẹn cùng nỗi uất ức điên cuồng lặng lẽ.Hết, phải
giã từ những chiến hữu hào kiệt, phải giã từ những chiến trận mịt mùng lửa dậy,
phải giã từ ngày căng thẳng giữa hai cọc sống - chết và đêm nóng đỏ của hơi bom
rát mặt...
Ngày ngày ngâm chân xuống bùn sâu của những kinh rạch chằng chịt
vùng Bến Lức, Long An, đêm dẫn bẩy người lính nằm phục kích trên bờ ruộng, tôi
nhìn sao, nhìn trời, nhìn cơn gió và ánh nắng, tưởng nhớ đến những nơi xa, nơi
chiến trận trùng trùng giăng kín những người quen hay không quen ngã xuống
trong mỗi giờ qua, mỗi ngày tàn.Tiểu Đoàn 11 Dù ở quảng Trị vừa chết thêm một Đại
Đội Trưởng - Nguyễn Phúc Long, Đại Đội Trưởng chỉ huy, như thế có nghĩa là pháo
đã tăng cường độ, tăng rất cao, rất mạnh.Tiểu Đoàn 3 Dù chết anh Thiếu Úy Thủ
Khoa một khóa Sĩ quan Trừ bị, cựu sinh viên luật từ Pháp về, con một ký giả, cựu
Thủ Hiến, một Trưởng Hướng Đạo. Tiểu Đoàn 3 Dù nằm dưới Mỹ Chánh, vậy là chiến
trận đã trở chiều.Rồi chiến trường Quảng Ngãi tăng cường độ.Bạn tôi, Lê Văn
Nghĩa, Chi Đoàn Trưởng chiến xa lừng lẫy 1-4 mất tích ở mặt trận Quế Sơn, mất
tích hay chết?Đau biết mấy, tháng trước Nghĩa vào Sài Gòn chạy đôn đáo để tìm
tôi... Tìm tao làm gì hở Nghĩa, phải chăng mày biết điềm đi khuất nên tìm kiếm
để giã từ!Ôi, bạn thân thiết của một đời mà bao nhiêu năm không gặp, lúc có thể
gặp lại thì đời đã đóng cửa biệt ly. Đau, cảm giác đau đớn rì rầm soi mòn cơ thể
trong tháng ngày tiêu hao làm tôi gẫy đổ từng vụn nhỏ. Ở vùng II, Tiểu Đoàn Biệt
Động Quân của Ngô Văn Mai, Tiểu Đoàn giải phóng Bồng Sơn đang kêu gọi tôi đến,
hăm hở sửa soạn chuyến đi dài với Biệt Động thì chiếc cùm cứng nặng đã gông vào
quanh cổ, làm gì đây? Giữa đám mây, cơn mưa chợt đổ ào xuống khi chân ngập dưới
bùn lầy rạch Rít, tôi ngẩng đầu nhìn hạt mưa mà gởi đến chiến trường bạn hữu
nơi xa tiếng thét lặng căm chất chứa những cay đắng lẫn ngậm ngùi. Rồi Thủy
Quân Lục Chiến sau 27 tháng Bẩy, thay thế Nhẩy Dù để “dứt điểm” cổ thành Quảng
Trị.12 giờ 45, ngày 25 tháng 7 tôi ở đấy, chứng kiến Tiểu Đoàn 5 Dù “mớn” bờ
thành và “dựng đại cái cờ,” lời Đại Đội Trưởng Đại Đội 51/TĐ 5 Dù.Gần hai tháng
qua đi, Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến đổi 6 Dù, 3 TQLC đổi 5 Dù, 9 TQLC đổi
11 Dù, Trâu Điên (2 TQLC), Quái Điểu (1 TQLC) chận đường cửa Bắc ngang sông Thạch
Hãn, những Tiểu Đoàn Mũ Xanh quá quen thuộc, quá gần gũi với những Nghiêm, Liễn,
Tiền, Hợp, những bạn thân, đấy là chưa kể Tùng, Để, Phúc, Kim, Tống, những niên
trưởng “đúng chỉ số” đã phải chịu bao nhiêu gian nan để bước chân vào nội
thành, nơi tòa nhà của Tiểu Khu Quảng Trị ... Gian nguy, hình như danh từ này
không đủ, không làm sao đủ được vì cổ thành là gì, nếu không phải là cục đá
vuông với bề dài mỗi cạnh 590 thước, cao và dầy 5 thước - Mục tiêu được đo bằng
số chính xác đó gồm trăm ngàn viên gạch ghép lại đã thấm bao nhiêu lít máu ?Mua
bằng bao nhiêu mạng người ?Bao nhiêu đời sốngđã đánh đổi lấy bức thành rộng năm
trăm thước vuông đó, bao nhiêu ?27 tháng 7 - 15 tháng 9 là 48 ngày, và nếu kể từ
7 tháng 7, lúc Tiểu Đoàn 7 Dù vượt qua ngã 3 Long Hưng vào cách chi khu Mai
Lĩnh 300 thước thì mặt trận thành phố Quảng Trị thực sự đã kéo dài trong 68
ngày, 68 ngày với lực lượng 4 tiểu đoàn Dù (5, 6, 7, 11) trong giai đoạn đầu và
8 tiểu đoàn TQLC (giai đoạn 2) cùng một liên đoàn BĐQ.Trong 68 ngày đó, đặc biệt
là 48 ngày của Thủy Quân Lục Chiến, các tiểu đoàn của ta đã phải chiến đấu liên
tục trên một chiến trường dài hai câynăm trăm thước từ ngã ba đường Lê Văn Duyệt,
đường vào TRí Bưu đến Long Hưng, ngõ vào Quảng Trị, và ngang một cây số hay
1000 thước - Những con số phải viết chính xác để nói lên một chiến trường hẹp cứng
gai góc hết ý niệm chiến trận - Chiến trường có diện tích Hai ngàn năm trăm thước
vuông đó đã được 15 tiểu đoàn bộ chiến bao vây và quét sạch từng thước đất, phải
nói từng tấc đất nếu muốn giữ độ chính xác trong 68 ngày, 15 tiểu đoàn hay 7500
người phải đi qua 2500 thước vuông, vậy mỗi người có bao nhiêu thước chiến trận
? - Con số trung bình cho thấy 3 người lính có 1 thước vuông mục tiêu.Một thước
vuông để tác chiến trong 68 ngày !!Quân sử thế giới trước và sau Quảng Trị,
không còn một nơi nào, không thể có một chiến trường nào chật cứng đứt hơi bằng
Quảng Trị, Việt Nam ... Chắc chắn như thế.Trong 68 ngày đó, 6 tiểu đoàn pháo của
hai sư đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến đã bắn bao nhiêu trái đạn, dàn hải pháo của
Hạm Đội số 7, phi cơ Việt Nam đã đánh 7 phi tuần xuống góc đông bắc cổ thành, mở
đường cho Tiểu Đoàn 5 Dù ; 7 phi tuần gồm 14 phi xuất, một phi cơ trong một phi
xuất đánh 12 trái bom từ 250 ký đến 500 ký ... Vậy trong 68 ngày, bao nhiêu bom
đã rơi xuống trên mỗi phần đất của thành phố chiều dài không quá 15 phút Honda
đó ?!!Quảng Trị !Muốn kêu lên một tiếng nhỏ, muốn nhỏ một giọt nước mắt - Thành
phố quê hương là thánh địa chịu nạn cho hết tai ương nhân loại - Không còn một
nơi chốn điêu linh nào của địa cầu qua mặt nơi mang tên Quảng Trị.Không có một
nơi nào.
Để kết luận, ta tìm một sự so sánh.Người Đức bao vây Stalingrad
76 ngày, người Mỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày, quân lực Anh và
Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày.Và gần gũi nhất, Điện Biên
Phủ thực sự bị bao vây là 56 ngày.Những cuộc bao vây và tử thủ lừng danh này được
thực hiện bởi súng Sten, Mat 36, Garant, Carbin M1, loại vũ khí hàng đầu của Bộ
Binh Mỹ, Bộ Binh số 1 của thế giới !!!Những trận đánh để đời của quân sử thế giới
đó có là gì so với Quảng Trị khi một anh Hạ sĩ nhất 17 tuổi, Trần Văn Rony của
Tiểu Đoàn 6 Dù hạ gần 100 Cộng quân trong một ngày chiến trận ... Dưới đất là
cá nhân chiến đất khai triển tối đa, trên trời 1 pass B52 đi qua (sau 27 tháng
7, phi cơ Mỹ và B52được lệnh đánh Quảng Trị) với 3 chiếc, một chiếc chở 42 trái
bom 250 ký, 24 trái bom 500 ký, cùng đánh xuống trên diện tích không quá 500
thước bề dài ... Còn gì nữa không ?Quả thật không còn đủ chữ nghĩa để nói hết
“nồng độ” của chiến trường.Từ ngã tư Quang Trung - Duy Tân, nơi Tiểu Đoàn 6 Dù
bàn giao lại.Tiểu Đoàn 6 TQLC đã mất hết 48 ngày để đánh đến vào góc thành đông
nam cổ thành Đinh Công Tráng - 48 ngày tác chiến dằng dặc thường trực trên trục
tiến quân dài đúng 400 thước ; 400 thước đầy chốt, chốt gồm một tổ 3, 6 hoặc 9
người, gồm đủ B40 và thượng liên, chôn cứng dưới những công sự chịu đựng được
bom, chốt được bao bởi một hàng rào cối “cơ hữu” từ những chốt lớn đằng sau và
đại pháo 130 từ Đông Hà, Bến Hải, Khe Sanh bắn xuống - Qua được một tấc đường,
đến gần một điểm chốt là bò trên nỗi chết cụ thể như lớp đất đá ngổn ngang mà
bàn tay chạm phải khi lần mò tìm kiếm lối đi ... 400 thước cho 48 ngày tác chiến
không dứt thở, còn điểm “thông hơi” nào của chiến trận để chiến sĩ ta chịu đựng
khỏi đứt hơi.
Thế nhưng người lính đã sống còn và chiến đấu được, chiến đấu
hào hùng hừng hực quyết tâm, 30 tháng 3 kể đến giờ này là 6 tháng hay 280 ngày
đỏ lửa, người chiến sĩ ta có đêm nào ngủ được quá 4 giờ, bao lần bình yên cầm
cái chén để từ tốn và miếng cơm nóng, người lính ta đã bắn bao nhiêu ngàn viên
đạn, đã dựng mắt thức trắng mấy ngàn giờ ... Cái thân thể gầy gò nặng dưới 50
ký lô mang bốn ngày thức ăn và gạo, một bộ áo quần, chiếc poncho, võng, 600
viên đạn XM16, 6 trái lựu đạn M26, 1 hỏa tiễn M72, nón sắt và khẩu súng - Tất cả
khoảng 40 ký - 40 ký đè nặng trên tấm lưng gầy còm hằn dưới xương sống trong 6
tháng để đi qua vực thẳm của nỗi chết trùng trùng, người lính còn là “nạn nhân”
thụ động đến độ thê thảm của trò chơi chính trị được cò kè mặc cả ở những căn
phòng kín cửa.Đưa bàn tay chỉ còn một ngón, người sĩ quan của Trung Đoàn 57 Sư
Đoàn 3 chỉ vào tượng Chúa ở ngực đểnói “ “Tất cả những điều tôi nói là sự thật
- Đầu tháng Tư trấn giữ ở phía bắc Đông Hà chính mắt tôi thấy 6 khẩu đại bác của
Bắc Quân khai hỏa ở Ngã Tư Sòng (Gio Linh) cách tôi không đầy 3 cây số, phi cơ
Mỹ được gọi tới và đánh cách mục tiêu 12 cây số ... Khẩu đội đại bác Bắc Quân để
sát cạnh đường vào làng Kim Môn dưới chân đèo Ba Dốc, những điểm địa hình quá dễ
nhận trên địa thế, vậy không có một lý do nào bảo tôi nhầm lẫn chấm sai mục
tiêu cả 12 cây số !!Và rõ ràng nhấtlà ngày 25 tháng 7, ngày Tiểu Đoàn 5 Dù bám
được bức tường đá Cổ Thành Quảng Trị, chỉ có mỗi phi cơ A37 của Không Quân Việt
Nam yểm trợ cho đến 12g45, khi Nguyễn Tấn Sĩ thúc lính bòlên thành, buổi chiều
Không Quân Hoa Kỳ can thiệp, dội bom nội thành - Kết quả vì hai trái bom đánh
nhầm, Tiểu Đàn 5 mất đà, khựng lại và dội ngược ... Sư Đoàn Dù trống ngã bến
Chùa, đường qua sông Thạch Hãn về NHan Biểu, Ái Tử - Đường tiếp vận của Bắc
quân ... 9 tiểu đoàn Dù chỉ vừa đủ rải dài từ Mỹ Chánh đến Quảng Trị, từ đường
chiến thuật 556B ra đến quốc lộ một lữ đoàn để chận con đường Ái Tử - Nhan Biều
- Cổ thành là ước vọng tha thiết của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hay cũng chính của
Tướng Trưởng ... Ước vọng được căng dài trong 2 tháng không thực hiện !! Thế
nên dù Tiểu Đoàn 5 Dù là tiểu đoàn hàng đầu của binh chủng, dù Tiểu Đoàn 6 là
tiểu đoàn đã làm phép màu ở An Lộc, hai tiểu đoàn này có gồm những người lính
đúc bằng thép cũng không thể dựng cờ Cổ Thành, không thể nào dựng được trong những
điều kiện thuận lợi tái người như đã nói.Vậy bám được bờ thành như buổi sáng
ngày 25 tháng 7 đã là một chiến công kỳ diệu. Chỉ có thể làm được với Tiểu Đoàn
5 Dù, đơn vị đã khai sinh sau vi tướng cho quân lực. Tướng Ngô Quang Trưởng khỏi
đầu võ nghiệp cũng với Tiểu Đoàn 5 Dù.
Người Lính Việt Nam đã chiến đấu và tồn tại như một nhiệm mầu.
Trên mầu nhiệm bình thường lặng lẽ này Tổ Quốc điêu linh thở từng hơi ngắn đớn
đau nhưng bền bĩ ... Chư nghĩa hoàn toàn vô nghĩa trước chân dung bi tráng hùng
vĩ của người và quê hương.
Việt Nam tháng 10, 1972.
Chương 19: Đêm Trên Bờ Thạc Hãn
Định mệnh, phải gọi sức mạnh bí ẩn và linh thiêng đó thêm một lần..
Phải, chỉ định mệnh mới có thể xếp đặt, dàn xếp tất cả tai ương, hạnh phúc, địa
ngục, thiên đàng cho con người.Những sự kiện kinh hoàng nhất đã xẩy đến, những
thống khổ đọa đầy nhất đã hiển hiện, tất cả tàn khốc chất ngất chiến tranh đã
ào xuống trên Quảng trị, kéo dài qua Đại Lộ Kinh Hoàng trong mùa hè trước thì
năm nay 1973, bắt đầu cho những ngày hè mới trên thành phố tan nát nhỏ bé này -
Thành phố, chữ viết đến quá ngại ngùng ... Vì đống gạch đá vĩ đại kia có phải
là một thành phố không ? - trên đoạn đường số 1 mà chỉ 365 ngày trước đây, hàng
ngàn người đã nằm xuống với hiện thực của một địa ngục trần thế ... 365 ngày đi
qua, trên bụi cỏ còn vương dấu mảnh áo quần cháy nám của người chết, trên lớp
cát xám lạnh theo cơn gió đôi khi thoang thoảng mùi thịt da chưa tan biến hết
và hằng ngày, hằng giờ trên Quảng Trị, “thành phố” không tiếng nói, không nóc
nhà, lũ chó hoang sục sạo tung hoàng tìm kiếm mùi chủ cũ ... Trên dấu vết mới
tinh của mùa hè khốc liệt vừa qua, những ngày hôm nay, mùa Hè 73 là sân khấu để
diễn ra một tấn kịch khác - kịch Hòa Bình - Bờ sông Thạch Hãn, nơi trao đổi tù
vĩ đại của một nền hòa bình lạnh buốt sống lưng - Định mệnh, chỉ có sức mạnh
siêu hình này mới giải thích được
Máy bay đi qua An Lỗ, qua Phong Điền, qua Mỹ Chánh, trời mù
sương nên trực thăng bay sát mặt đường ... Tôi lại thấy cầu Dài, cầu Ngắn, thấy
hỗn độn trên cát trắng cảnh chết của toàn thể con người mà dấu vết sau một năm
dài vẫn còn hằng hằng trên màn mắt ... Nhưng trước mặt, hai bên, trên chiếc trực
thăng bây giờ tôi đang bị vây quanh bởi nón ông soa, nón cối, áo đại quân, áo
tác chiến vải kaki Nam định và thuốc lá Điện Biên bay mùi khét ... Thượng Đế
ơi, phải chăng người muốn ném tôi vào một cơn đùa !!? Hằng ngày đi bộ từ nơi của
Nghiêm, (Tiểu Đoàn Phó TĐ ! TQLC) căn nhà lầu có lò gạch mà mùa Xuân Mậu Thân
tôi đã đến ở và chiến đấu ... Trí nhớ vận dụng tối đa cũng không thể xác định
được nơi chốn đã một lần trú ngụ ... Và Quốc Lộ 1, đường Nguyễn Hoàng, đường
Gia Long, trạm xăng xưa tôi và Mễ mua xăng theo lối “ủng hộ,” quán sách đối diện
Cổ Thành, quán bún bò ở bờ sông ... Tất cả chốn xưa mỗi ngày mỗi giờ đi qua vẫn
không thể tìm ra dấu tích ... Quảng Trị ơi, trái tim muốn vỡ tan dưới tiếng
than im lặng.Và tôi lại đến ngồi ở bến sông, nơi tọa độ YD3 ... Lịch sự, hòa
nhã, kiềm chế hết phẫn nộ, đè xuống hết tức tưởi ... Thông báo cùng quý vị, thể
hiện tinh thần hòa giải, thi hành nghiêm chỉnh Nghị Định Thư ... Tôi phải đối mặt
với một kẻ thù vẫn còn rất mới. Ngày này, tại đây, mùa hè năm trước. Trước mặt,
Quảng Trị tan vỡ chập chùng qua lớp nước mắt vô hình
Thương thân, thương bè bạn, thương người, thương thành phố.Nỗi
thương mến mênh mông nhưng dày đặc, thương mến rộn rã đau đớn, thương mến ngất
bồn chồn ... Mỗi lần ngồi xuống chiếc canô chạy qua bờ bắc Thạch Hãn, thấy lá cờ
vàng phất phới trên điêu tàn - lòng trùng xuống, độ phiền muộn sâu như hố thẳm
... Đêm khuya, sương mù mịt, trăng lạnh dọi xuống giòng sông đang lách tách con
nước về biểnxa, nhìn phióa núi nơi bạn thân đang co mình dưới hầm để qua cơn
pháo tập trung từ Gio Linh đổ xuống ... Đêm qua dần dần, ngày đến, trăng lặn
vào nơi xa, màu vàng đục phiền muộn như nỗi uất ức ... Ngày hết hẳn, trời sáng,
lính và dân tập họp đầy ở bờ sông để đón “anh em mình” về và chứng kiến những
phương thức biểu lộ “đấu tranh cách mạng” hạ cấp, cố chấp và bỉ ổi của lũ tù được
trả về bên kia - Nơi không có con người ... Đứng trong đêm, nghĩ chuyện trong
ngày để thấy bội phục vô vàn lòng cao cả và sức chịu đựng siêu đẳng của Người
Việt Miền Nam - Những người lính vừa qua đêm dài dưới pháo nổ và người dân còn
hằn vết dấu kinh hoàng - Quảng Trị, nơi họ chứng kiến lũ tù Cộng Sản đi qua thoảng
tiếng tru của lũ chó hoang đi tìm chủ
Lòng cố chấp và sự căm hờn, những khuyết điểm mà người viết dù ở
hoàn cảnh nào cũng phải nên chối bỏ. Nhưng trong hoàn cảnh đau đớn này, phải
cho tôi quyền phẫn nộ - Tính chất cần thiết để bảo vệ con người trước bạo lực.
Cuốn sách đã hình thành trong cơn đau đớn, lần in thứ hai này người viết xin được
gởi kèm theo một tình ý mới - Xin được coi như một vũ khí bảo vệ con người. Lời
nói không phải mang tính chất kệch cỡm của một đại ngôn láo xược nhưng xin được
nghĩ là sự cầu khẩn phát xuất từ một người Việt Nam trong hoàn cảnh bi thiết
hào hùng - Hoàn cảnh của chính quê hương Việt Nam.
Một năm qua, những người lính được kể đến đã có nhiều biến đổi.
Rất nhiều người thay cấp bậc và chức vụ, nhiều người tạm biệt chiến trường và
những người đã ... chết.Bên cạnh đó, có những người sống lại, những người trở về
và hỏa ngục Cộng Sản đã được xác nhận là một thực thể.Đồng thời những chuyến đi
kế tiếp còn cho biết có rất nhiều trận lớn đã không được ghi nhận, như trận “Quận
Triệu Phong” của Tiểu Đoàn 1 TQLC, trận đánh mẫu chốt mở đường cho chiến dịch
tái chiếm Quảng Trị - Quận đường Triệu Phong , chốt chận đường tiếp vận của Bắc
quân từ phía bắc theo sông Thạch Hãn vào Quảng Trị. Thế nên, phải xin lập lại một
lần câu tạ lỗi.Một cá nhân trong thời gian giữa các chuyến đi không thể nào có
khả năng ghi nhận đủ toàn thể một cuộc chiến vĩ đại.Cuộc chiến vượt hết cả cuộc
chiến lịch sử chiến tranh loài người.
Quảng Trị- Tháng 3-73
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét