12
Trại giam Z30A Xuân Lộc
Ngày 20 tháng 9 năm 1995, một
toán công an vũ trang áp giải tôi và hai người khác từ khám đường Chí Hòa đến
trại Z30A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai. Trại giam này tọa lạc gần ngọn núi
Gia Rây (còn gọi là Gia Lào), cách ngã ba ông Ðồn khoảng chừng năm cây số.
Chúng tôi bị tra chân vào cùm trên một chiếc xe tải, cửa đóng bịt bùng.
Ðến phân trại K2 khoảng mười
hai giờ, chúng tôi vẫn phải ở trên xe chờ đến hơn một tiếng đồng hồ, rồi mới
được tháo cùm chân để vào làm thủ tục nhập trại. Kể từ ngày bị bắt trong đợt đi
cứu trợ đồng bào vào năm ngoái, hôm nay tôi mới được trông thấy vòm trời bao la
cao rộng, cùng cảnh vật thiên nhiên. Dù đang mang thân phận kiếp sống tù đày,
hoàn toàn mất tự do, nhưng khi nghĩ lại những tháng ngày bị cấm cố trong bốn
bức tường vây kín, tối tăm ngột ngạt, thì giờ đây, tôi cảm thấy có chút gì đó
thoải mái hơn.
Nhìn cảnh vật chung quanh làm
tôi nhớ lại những năm về trước, có vài lần tôi đi theo đoàn Tăng Ni và Phật tử
do Hòa thượng Thích Tâm Hướng tổ chức; chúng tôi đến trại này để thăm Hòa
thượng Thích Ðức Nhuận - Cố vấn Viện Hóa Ðạo; quý Thượng tọa Thích Trí Siêu,
Thích Tuệ Sỹ, Thích Nguyên Giác… cũng bị giam giữ ở đây.
Phân trại K2 có khoảng một
nghìn phạm nhân, đủ mọi thành phần và tội trạng. Từ cổng chính đi vào là sân cỏ
rộng, dùng làm nơi phạm nhân tập họp để xuất trại đi lao động và cũng là sân
bóng đá. Kế sau sân cỏ là hội trường, hai bên là các khu giam giữ phạm nhân.
Thường ngày, mọi người bị cưỡng bức lao động, làm đủ mọi thứ công việc. Có vài
khu biệt giam nằm ở góc phía sau hội trường, hoàn toàn cách ly với các phạm
nhân khác; như trường hợp bác sĩ Nguyễn Ðan Quế, ông Nguyễn Hữu Cầu và một số
tù nhân chính trị khác đều bị giam riêng ở đây.
Một hôm nọ, tôi vào quán bán
hàng trong trại để mua đồ, bất chợt có một thanh niên trạc chừng hai mươi tuổi
đến chào tôi và tỏ ý xin giúp đỡ. Nhìn gương mặt xanh xao hốc hác, tôi hỏi thăm
mới biết người ấy vừa mới hết thời hạn thi hành kỷ luật trại giam. Anh ấy cho
biết, mỗi ngày hai bữa, anh được phát cơm có chan sẵn nước muối, mặn hay nhạt
cũng phải ráng nuốt vào miệng, bởi vì chẳng còn thức ăn nào khác. Tại buồng kỷ
luật, ai cũng bị cùm một hoặc hai chân, tùy mức độ vi phạm. Ở đây một tháng,
cán bộ trại giam chuyển tôi ra phân trại K1. Hầu hết những tù nhân chính trị và
tôn giáo đều tập trung ở phân trại này, có khoảng gần hai trăm người tù chính
trị trong tổng số chừng sáu trăm phạm nhân ở đây.
Ðược biết vừa qua, sau cuộc
nổi dậy của tù nhân chính trị ở thung lũng tử thần, tức trại A20, Xuân Phước,
tỉnh Phú Yên (miền Trung Việt Nam), cục quản lý trại giam V26 đã di chuyển một
số chính trị phạm chủ chốt ra trại Ba Sao, huyện Phủ Lý, tỉnh Nam Hà (miền Bắc
Việt nam), số còn lại được chuyển vào trại Z30A Xuân Lộc.
Năm 1996, bộ Nội vụ mở đợt
học tập chính trị về đường lối chính sách của đảng Cộng sản và nhà nước. Kết
thúc đợt học tập này, mỗi người phải viết một bản thu hoạch để nộp, nhưng thật
sự là để chúng trắc nghiệm tư tưởng. Quý thầy Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát),
Thích Thiện Minh (Huỳnh Văn Ba), Phạm Trần Anh, Nguyễn Viết Huân (tu sĩ dòng
Ðồng Công - Thiên Chúa Giáo), các vị chức sắc Cao Ðài, Hòa Hảo…và rất nhiều
người khác đã mạnh dạn lên án chế độ độc tài đảng trị, đòi hỏi đảng Cộng sản đương
quyền phải hủy bỏ điều 4 ghi trong Hiến pháp, để tiến tới một nền dân chủ đa
nguyên.
Sau sự việc này, thầy Thích
Trí Siêu là người đầu tiên bị chuyển vào phân trại K2, biệt giam ở khu vực cách
ly. Số tù nhân chính trị có tư tưởng chống đối được thể hiện qua bản thu hoạch
vừa rồi, thì sẵn sàng chờ đợi biện pháp xử lý của ban giám thị trại giam.
Một hôm nọ, đội chúng tôi đi
lao động ở khu vực đồi Phượng Vĩ, trở về thì gặp cơn mưa lớn, ai nấy đều ướt
sũng, quần áo dính đầy đất bùn đỏ. Về đến cổng trại, cả đội đang xếp hàng chờ
kiểm tra để vào trại, bất chợt vài cán bộ có vũ trang gọi riêng thầy Thích
Thiện Minh tách ra khỏi hàng. Mọi người ngơ ngác không hiểu chuyện gì sẽ xảy
ra. Công an trại giam dẫn thầy lên một chiếc xe đậu sẵn gần đó, rồi rồ máy chở
đi. Tôi vào buồng giam soạn hết đồ đạc của thầy, rồi giao cho cán bộ trực trại
theo yêu cầu của họ. Sau này mọi người hỏi thăm mới biết thầy Thiện Minh bị đưa
vào K2 biệt giam. Ðây là đòn trả đủa thứ hai của nhà cầm quyền cộng sản đối với
những người bất đồng chính kiến tại trại giam Z30A sau vụ việc vừa qua.
Thầy Thích Thiện Minh thế
danh Huỳnh Văn Ba xuất gia từ nhỏ, người ở tỉnh Minh Hải (Cà Mau), bản tính khí
khái, không chịu khuất phục trước bạo quyền. Năm 1975, khi quân cộng sản miền
Bắc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, Ủy ban quân quản ban hành chính sách chiếm
dụng các cơ sở tôn giáo, trong đó có nhiều chùa chiền thuộc Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất, thầy khẳng khái lên tiếng phản đối. Chính quyền cộng sản
bắt giam thầy Thích Thiện Minh rồi kết án tù chung thân với tội danh “Âm mưu lật đổ chính quyền’’.
Sau cuộc nổi dậy của số tù
nhân chính trị tại thung lũng tử thần A20 Xuân Phước, thầy Thiện Minh là một
trong những người chủ chốt, cùng với một số anh em khác tổ chức vượt trại. Sự
việc bất thành, thầy bị tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên kết thêm một bản án chung
thân nữa. Người tù chính trị kiên cường mang hai bản án chung thân ấy luôn luôn
đứng về phía chính nghĩa, thẳng thắn lên tiếng khi gặp sự áp bức, bất công, phi
lý của ban giám thị và cán bộ trại giam. Bởi vậy, thầy thường xuyên bị gán ép
vi phạm nội quy và chịu cùm chân ở buồng biệt giam nhiều ngày, gọi là thi hành
kỷ luật.
Chúng tôi thiết tha kêu gọi
Tổ chức Ân xá Quốc tế, Liên Ðoàn Quốc tế Nhân quyền, Tổ chức Theo dõi Nhân
quyền, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, cùng các tổ chức bảo vệ nhân
quyền trên thế giới…, xin hãy vì công lý, bình đẳng, để gióng lên tiếng chuông
cảnh tỉnh, đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy trả tự do cho các tù
nhân vì lương thức, trong đó có thầy Thích Thiện Minh, bác sĩ Nguyễn Ðan Quế, giáo sư Nguyễn Ðinh Huy v.v...
13
Kiếp lao ngục đọa đày
Gần một phần tư thế kỷ trôi
qua, kể từ khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, có ai tả xiết bao nỗi
đắng cay đày ải mà hàng nghìn hàng vạn người phải gánh chịu trong chốn lao tù.
Rộng ra nữa, chế độ độc tài đảng trị đè nặng lên kiếp sống người dân hai miền
Nam Bắc. Chính sách sai lầm tai hại trong thời kỳ cải cách ruộng đất giữa thập
niên 50 ở miền Bắc đã giết hại oan uổng bao nhiều người vô tội. Tám chục triệu
con dân Lạc Việt phải chịu cảnh cơ cực lầm than bởi hơn hai triệu đảng viên
đảng Cộng sản nắm quyền sinh sát trong tay.
Cái gọi là tập trung cải tạo
sau tháng tư đen năm 1975, chính quyền cộng sản đã đày đọa bao nhiêu viên chức
sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa, các nhà lãnh đạo tôn giáo, nhân sĩ, trí
thức…, cùng những người dám nói lên tiếng nói lương thức để đòi lại quyền con
người và tự do dân chủ thực sự. Trong cảnh lao lung, có những người đã vùi chôn
thân xác và mãi mãi ra đi.
Ðầu mùa hè năm 1996, tiết
trời nóng bức, cỏ cây hoa lá đều nhuốm bụi hồng, một màu hồng của miền đất đỏ
Xuân Lộc. Hầu hết số tù chính trị ở phân trại K1 đều bị cưỡng bức lao động, tất
cả được điều động đào đất đổ nền móng xây dựng khu văn phòng làm việc của ban
giám thị trại giam. Tính theo số người trong đội, mỗi người buộc phải hoàn
thành một mét rưỡi khối đất mỗi ngày. Cứ hai người khiêng một trạc, đi đi lại
lại, cố gắng làm xong chỉ tiêu trong ngày để về ngơi nghỉ. Ðội chúng tôi làm
việc quần quật ròng rã hơn cả tháng trời, ai nấy đều bơ phờ mệt mỏi, chân tay
rã rời, có người đã ngất xỉu ngay trên công trường. Mọi người chỉ biết ngậm
đắng nuốt cay, đành lòng chấp nhận một kiếp tù đày.
Sau thời gian lao khổ ấy, tất
cả phạm nhân toàn phân trại lại bị buộc phải đi lao động vào sáng chủ nhật hàng
tuần mà không được nghỉ bù. Lẽ ra ngày này chúng tôi được nghỉ lao động theo
quy chế trại giam. Mọi người tập trung vào công việc góp nhặt những tảng đá lớn
nhỏ nằm rải rác trên các triền đồi phía sau chùa Lam Viên. Vào giờ nghỉ giải
lao, được sự đồng ý của cán bộ, tôi vào chùa thắp nhang lễ Phật. Thế là ngót
hai năm nay, tôi mới có nhân duyên được đỉnh lễ ngôi Tam Bảo. Nước mắt tự nhiên
tuôn trào, tôi chạnh lòng nghĩ đến hai vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích
Quảng Ðộ, tôi nhất tâm cầu nguyện quý ngài pháp thể khinh an, sớm thoát khỏi
vòng lao lý và mong sao pháp nạn mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang
gánh chịu sớm được giải trừ.
Công việc lao động sáng chủ
nhật được vài tuần thì xảy ra sự chống đối của một số anh em tù chính trị vào
cuối tháng 5 năm 1996. Các vị này chống lại việc cưỡng bức lao động bằng cách
không chịu xuất trại. Cuộc cãi vã bột phát giữa sân trại chẳng khác nào một
cuộc nổi dậy chưa từng có. Các bạn Nguyễn Văn Biên, Thái Phi Kích, Nguyễn Văn
Tựu, Lê Văn Thể, Nguyễn Văn Mười, Nguyễn Thanh Hồng, Nguyễn Viết Ðào v.v… là
trong số những người phản kháng ra mặt. Tuy nhiên, chỉ có Nguyễn Thanh Hồng và
Nguyễn Viết Ðào nhận quyết định thi hành kỷ luật, hai anh bị đưa vào phân trại
K2 và chịu cùm chân ở buồng kỷ luật.
Thế rồi, bản kiến nghị của
gần hai trăm chính trị phạm toàn trại đòi cải thiện chế độ lao tù và chấm dứt
việc cưỡng bức người già yếu lao động khổ sai được soạn thảo. Văn bản được lén
chuyển ra ngoài an toàn, trân trọng gửi đến Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt
Nam ở Paris. Ông Võ Văn Ái đã công bố sự trạng này tại Hội trường Liên Hiệp
Quốc gây chấn động dư luận quốc tế, các tổ chức bảo vệ quyền con người cùng lúc
mạnh mẽ lên án Hà Nội vi phạm nhân quyền và đàn áp tù nhân chính trị tại Việt
Nam.
Kết quả đưa đến sự việc là
toàn bộ ban giám thị trại Z30A Xuân Lộc bị thuyên chuyển. Do đó, vòng đai an
ninh kiểm soát chặt chẽ hơn trước nhiều, số tù chính trị lao động tự giác bị
hạn chế. Thậm chí ngôi nhà lô của thầy Thích Không Tánh ở khu vườn điều bên
ngoài cũng bị đốt cháy rụi vào lúc nửa đêm, mái tranh vách nứa trở thành một
đống tro tàn. Có lẽ ngôi nhà này bị tình nghi là nơi trung chuyển tin tức và
các văn bản ra ngoài.
Nhục hình trong chế độ lao tù cộng sản |
Khu đất vườn phía tay trái
nhìn từ cổng trại vào nay được khởi công xây dựng hai dãy nhà giam mới để giam
giữ tù nhân chính trị, phòng ốc cũng rộng rãi và chỉnh trang hơn, có bể chứa
nước được bơm từ giếng bên ngoài, nhất là mùa nắng hạn có nước dự trữ để dùng.
Cuối năm 1996, tôi được
chuyển qua đội trồng rau xanh, sau đó lại được phân công dạy học cho một số anh
em cần bổ túc văn hóa, cho đến ngày mãn án ba mươi tháng tù giam.
Biểu tượng Tổ chức Ân xá quốc tế |
14
Án lệnh quản thúc
Ngày 13 tháng 2 năm 1997, cán
bộ trực trại dẫn tôi vào văn phòng ban giám thị để làm thủ tục mãn án. Cầm tấm
giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù, bên dưới có ghi thêm dòng chữ: “ Quản chế 5 năm sau khi mãn hạn tù, tước
quyền bầu cử…’’, tôi thầm nghĩ rằng, mình sắp rời khỏi trại giam Xuân Lộc,
gọi là được trả tự do, song thật sự là cuộc đời mình bắt đầu bước chân vào một
nhà tù lớn. Nhà tù này tuy không có cửa khóa bịt bùng, bên ngoài không có hàng
rào điện tử để báo động khi có người trốn trại, mà chính quyền cộng sản Việt
Nam đã lấy nhà chùa biến thành nhà tù, như họ đã từng giam giữ Hòa thượng Thích
Quảng Ðộ ở Vũ Ðoài, tỉnh Thái Bình; Hòa thượng Thích Huyền Quang ở chùa Hội
Phước, tỉnh Quảng Ngãi; Thượng tọa Thích Liễu Minh ở một ngôi chùa làng hẻo
lánh thuộc tỉnh Tiền Giang v.v… Nhà tù lớn này luôn luôn có công an ngoại tuyến
rình rập, theo dõi; mỗi tháng phải đi trình diện, đi đâu xa thì phải xin phép,
đủ chuyện trên đời. Ðang miên man nghĩ ngợi, chẳng mấy chốc tôi đã ra đến ngã
ba ông Ðồn, rồi đón xe trở về thành phố.
Theo giấy ra trại, tôi về lại
chùa Pháp Vân, đến trình diện công an phường 18, quận Tân Bình và tiếp tục thi
hành bản án quản chế 5 năm.
Mặc dầu tôi đã gửi đơn yêu
cầu được trở về lại chùa Liên Hoa, ấp Tân Cang, xã Phước Tân, huyện Long Thành,
tỉnh Đồng Nai; hoặc là chùa Hoa Nghiêm, thôn Ðại Ninh, xã Ninh Gia, huyện Ðức Trọng,
tỉnh Lâm Ðồng; là hai nơi tôi trú trì trước đây, thế nhưng vẫn không được chính
quyền giải quyết, cho nên tôi đành phải làm thủ tục tạm trú ở đây, có sự bảo
lãnh của Hòa thượng trú trì Thích Thật Trí.
Một buổi sáng nọ, tôi có công
việc phải rời chùa khoảng hai tiếng đồng hồ. Khi trở về thì thấy đồ đạc của
mình bị vứt ra khỏi phòng, tôi hỏi các chú ở nhà thì được biết, họ chỉ làm theo
lệnh của thầy Thích Phước Trí ở chùa Vạn Phước, người tạm thời trông coi ở đây.
Trước tình cảnh này, nếu là một công dân được tự do, thì tôi đã trở về chùa cũ
từ lâu. Ngặt nỗi, tôi là tù nhân đang thi hành án lệnh quản thúc của chính
quyền, thì làm sao tôi có thể tự ý rời bỏ chỗ này để đi nơi khác khi chưa có
lệnh của cơ quan công an thành phố. Tấn thối lưỡng nan, chưa biết phải tính thế
nào, tôi bách bộ trước sân chùa.
Ðứng dưới bóng cây mai, tôi
nghiêm trang nhìn nấm mộ cố Thượng tọa Thích Thanh Văn, cựu giám đốc trường
Thanh niên phụng sự xã hội, bên cạnh những nấm mộ của nhiều cựu tác viên bất
hạnh, đã bị Việt cộng ném lựu đạn gây tử thương trong lúc sinh hoạt và làm công
tác ở đây vào khoảng thập niên 60. Bất chợt tôi nhớ lại và cất tiếng ngâm nga
bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của thiền sư Chánh Thống, hiệu Bích Phong, chùa Quy
Thiện, Huế:
Do lai duật bạng cửu tương
trì,
Ðể sự tang thương vị liễu kỳ.
Bán chẩm Hoàng lương kinh
mộng hậu,
Tiền trần hồi thủ sự giai
phi.
Tạm dịch:
Cò hến giằng co gẫm nực cười,
Bể dâu dồn dập mấy phen rồi.
Kê vàng nửa gối bừng đôi mắt,
Còn
mất hơn thua cũng chuyện đời.
Bỗng phía ngoài cổng chùa có
tiếng xe gắn máy chạy vào, thì ra, công an phường 18 quận Tân Bình đến gửi giấy
mời, rằng tôi phải có mặt tại trụ sở Ủy ban phường 18 ngay bây giờ để làm việc.
Tôi đến trụ sở Ủy ban nhân
dân phường theo giấy mời, ông chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường tiếp tôi. Sau
vài câu thăm hỏi xã giao, ông ấy chậm rãi đi đến bàn giấy lấy một xấp hồ sơ và
tài liệu của Viện Hóa Ðạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - ông mang
đến để trước mặt tôi rồi hỏi:
- Ðây là những tài liệu mang nội dung chống phá nhà nước, có phải của
thầy cất giữ hay không?
Tôi thản nhiên hỏi lại:
- Thế cơ quan an ninh của các ông tịch thu các giấy tờ này ở đâu mà bảo
rằng đó là của tôi?
-
Sáng nay, thầy Phước Trí là người đang nộp đơn xin chúng tôi hợp thức hóa trú
trì chùa Pháp Vân thay thế Hòa thượng Thích Thật Trí nay đã già yếu, thầy ấy tự
động sai người mang những tài liệu giấy tờ này ra giao nộp chính quyền, bảo
rằng những thứ này lấy ở trong kệ sách của thầy Trí Lực.
Nói xong, ông ấy bèn đi ra
ngoài vì có ai chờ đợi việc gì đó nảy giờ.
Còn lại một mình trong phòng,
tôi tập trung suy nghĩ sẽ đối phó sự việc này như thế nào? Bỗng nhiên, một viên
công an phường bước vào, hình như ông ấy tỏ vẻ có thiện cảm với tôi. Ông ta
nói:
- Thầy nên phủ nhận là hơn.
Tôi hỏi ngay:
- Ông nghĩ thế nào, tại sao thầy Phước Trí
cố tình làm hại tôi như vậy?
- Cũng dễ hiểu thôi, thầy ấy muốn chùa
Pháp Vân không dính dáng gì đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để lấy
điểm tốt với chính quyền, đó cũng chỉ là một cách lập công.
Rồi viên công an này còn cho
tôi biết thêm, trong thời gian tôi ở tù, thì ngoài này thầy ấy đã lo quà cáp để
vận động chính quyền địa phương không đồng ý cho tôi trở về chùa Pháp Vân sau
khi mãn án tù, mà sẽ chuyển đi quản thúc ở một nơi khác.
Tôi cười và nói:
- Hèn gì ngày tôi đến trình diện, ông trưởng công an phường ngạc nhiên bảo rằng,
sao tôi lại về đây? Tôi trình giấy ra trại và trả lời rằng, tôi đâu có biết,
trong giấy ghi tôi về trình diện ở đâu, thì tôi phải đến trình diện ở đó.
Ông ấy mỉm cười thông cảm gật
đầu chào tôi rồi đi ra. Một lát sau, ông Chủ tịch Mặt trận phường trở vào tiếp
tục làm việc với tôi. Uống xong cốc nước, ông ấy chậm rãi nói:
- Sao, thầy vừa mới đi cải tạo về mà lại
còn ngoan cố lưu giữ tài liệu chống phá cách mạng, như vậy là vi phạm pháp luật
và có thể bị truy tố ra tòa.
- Tôi hoàn toàn phủ nhận. Tại sao các cơ
quan an ninh không ra lệnh khám xét chỗ ở của tôi để lập biên bản thu giữ, gọi
là biên bản phạm pháp quả tang rồi xử lý. Trong các tài liệu đó có chữ ký của
tôi hay không? Có bút tích của tôi hay không? Nếu có thì tôi sẽ chịu trách
nhiệm hình sự. Nhân đây, tôi cũng xin báo cho chính quyền biết, sáng nay, thừa
dịp tôi đi vắng, thầy Phước Trí đã sai chúng điệu vứt hết đồ đạc và giấy má của
tôi ra khỏi phòng, tôi sẽ làm đơn tường trình sự việc, yêu cầu chính quyền giải
quyết cho tôi trở về chùa cũ của tôi.
Một lát sau, ông ấy bảo tôi
ra về và hãy chờ ý kiến cấp trên.
Tôi trở về rồi vội vàng đi
đến chùa Long Vĩnh, đường Lê Văn Sĩ, quận 3. Hôm nay là ngày giỗ cố Hòa thượng
Thích Thiện Minh, ngày mà gần hai mươi năm trước, chính quyền cộng sản đã tra
tấn ngài đến chết một cách đau thương trong ngục tù. Trang nghiêm trước di ảnh
của ngài, tôi thắp hương tưởng niệm và chí thành đỉnh lễ Giác linh.
Mặc dù tôi đã làm đơn gửi đến
bộ Công an ở Hà Nội trình bày sự việc, yêu cầu cơ quan thẩm quyền giải quyết
tình trạng của tôi. Tôi mong ước được trở về chùa cũ hay một nơi nào đó để tiếp
tục thi hành án lệnh quản thúc. Thế nhưng hoàn toàn vô vọng, chẳng thấy họ hồi
âm. Theo pháp lý, tôi không thể nào tự ý rời bỏ nơi chỉ định cư trú khi chưa có
ý kiến của cơ quan chủ quản là PA38, công an thành phố. Thế nên, suốt cả tháng
trời, tôi đành phải trải chiếu gối ngủ ở hiên chùa, đêm đêm ngắm nhìn trăng sao
đầy trời bao la cao rộng, nhiều lúc cũng gặp cảnh gió lộng mưa chan. Ðến thế là
cùng, tôi trở thành một người tù không có buồng giam.
Sở dĩ tôi ghi lại sự việc này, một quá khứ
dở khóc dở cười, pha lẫn chút oái oăm, không phải tôi có ý oán hờn trách móc
ai, mà chính là tôi muốn nói lên bản chất của chế độ cộng sản. Bản chất ấy có
thể sản sinh ra những con người đối xử với nhau một cách cạn tàu ráo máng: con
tố cha, vợ tố chồng, anh tố em, trò tố thầy… Chủ nghĩa cộng sản vốn mang bản
chất tựa hồ loài bọ ngựa, chúng có thể cấu xé, nhai nuốt hoặc tàn hại đồng loại
mà không chút thương tâm. Làm sao mà trong tình đời nghĩa đạo với nhau, lại có
những người nhẫn tâm đặt bút ký tên thỉnh nguyện, đề nghị chính quyền cộng sản
đưa những người đồng hội đồng thuyền với mình phải chịu cảnh lưu đày biệt xứ,
còn đâu là tình cốt nhục Linh Sơn? Làm sao mà hàng hậu bối có thể đi tố giác
với thế tục quyền những việc làm chính đáng của thầy tổ mình, mà việc làm ấy
đúng thật là đại nghĩa, vì sự sống còn của Giáo hội truyền thống, được truyền
thừa bởi lịch đại
Tổ
sư?
Trở về quê cũ
Mấy tháng sau, tôi quyết định trở về chùa
Linh Mụ mà chẳng cần báo với công an. Dù sao chăng nữa, tôi nghĩ rằng, đi đâu
cũng không bằng trở về chùa thầy tổ của mình. Vả lại, chùa Linh Mụ nằm trong
địa phận thôn An Ninh Hạ, xã Hương Long, huyện Hương Trà, là làng quê của tôi,
chỉ cách chùa cánh đồng Trường thi và mấy lũy tre xanh. Qua khỏi cầu chợ Thông,
băng ngang xóm Rào, mọi người đã trông thấy mấy tầng cao của ngọn tháp Phước
Duyên vượt lên khỏi rặng dương liễu phía sau chùa. Ðêm khuya, hòa lẫn tiếng gà
gáy sáng, tiếng chuông Linh Mụ vẳng nghe mồn một, dường như đó là chiếc đồng hồ
báo thức cho dân làng, mọi người thức dậy sửa soạn gồng gánh ra đi cho kịp
phiên chợ sớm, hoặc chuẩn bị cơm nước để ra đồng lo việc cày cấy ruộng nương.
Có những đêm khuya, nhất là mùa đông giá lạnh, thỉnh thoảng chúng tôi lại ngủ
quên nên trễ nải giờ giấc đánh chuông. Thế là sớm mai, khi quét lá sân bảo
tháp, gặp một vài o lật đật quảy gánh đi ngang, mấy o toét miệng cười vừa mắng
vốn chúng tôi về lỗi ngủ quên, làm cho họ phải chậm trễ buổi chợ.
Chuyến xe lửa Nam Bắc tạm dừng ở ga Huế.
Sau những năm tháng tù đày, nay tôi mới có dịp trở lại cố hương, trong lòng cảm
thấy bồi hồi. Không như những lần trước, tôi trở về chùa để hầu thăm ôn và quý
thầy, nay ôn đã viên tịch, thầy Thích Trí Tựu tuy đã mãn án nhưng hiện vẫn còn
bị quản thúc vô thời hạn ở chùa Tây Thiên, dù chẳng có án lệnh của tòa. Ngày
thầy Thích Trí Tựu hết hạn tù ở trại Ba Sao, công an tỉnh Thừa Thiên - Huế mang
xe ra tận miền Bắc đưa thẳng thầy về đây. Về phần quý thầy Thích Hải Tạng,
Thích Hải Chánh, Thích Hải Thịnh thì nay công an mời, mốt ủy ban gọi, dằng dai
dằng dói, sách nhiễu đủ điều.
Vì nhân duyên Phật sự, tôi xa cách Linh Mụ
khá lâu, tuy vậy quý thầy và chúng điệu trong chùa luôn luôn hoan hỷ tiếp đón
tôi tựa bát nước đầy. Các vị ấy xem tôi như một người anh hay người em đi xa,
lâu lâu trở về thăm nhà, trọn vẹn đạo tình huynh đệ.
Tháp bảy tầng soi bóng Hương giang
|
Thế rồi, chỉ ít hôm sau, lực lượng công an
xã Hương Long, thành phố Huế gõ cửa chùa vào kiểm tra hộ khẩu giữa đêm hôm
khuya khoắt. Chính thật là họ đang tìm tôi để bắt giữ hoặc trục xuất tôi ra
khỏi đất Huế. Không những chùa Linh Mụ, mà cùng lúc, các chùa Diệu Ðế, Nam Phổ
đều có công an đến kiểm tra. Hai ngôi chùa này do thầy Thích Giới Hương và
Thích Trí Ðạo trú trì, hai vị ấy đều là pháp huynh của tôi. Công an suy đoán
rằng, có thể tôi sẽ về tá túc ở đây.
Nhà ông cụ thân sinh tôi ở Tây Lộc, gần
cửa Chánh tây, công an phường thường xuyên vào nhắc nhở, bao giờ tôi về thăm
gia đình thì phải ra trụ sở công an phường báo ngay cho họ biết.
Lực lượng công an lùng sục tôi khắp nơi,
không thể nào né tránh hoài, tôi lặng lẽ khăn gói ra đi, cho dù tôi cố nán lại
ở quê nhà, thì cũng chẳng tìm ra một chỗ nào khả dĩ dung thân. Với tình cảnh
như vậy, quả thật chính quyền cộng sản đã dồn ép tôi vào bước đường cùng!
Trên đường trở vào miền Nam, tôi ghé chùa
Quang Phước, thị trấn Chợ Chùa, tỉnh Quảng Ngãi, để hầu thăm Hòa thượng Thích
Huyền Quang đang bị quản thúc ở đây. Thị trấn Chợ Chùa nằm cách trung tâm thị
xã Quảng Ngãi khoảng chừng mười cây số, đường sá gồ ghề. Thầy Hải Thịnh làm bạn
đồng hành với tôi, thầy thay mặt Tăng chúng chùa Linh Mụ vào cúng dường và vấn
an Hòa thượng. Chúng tôi đến thị trấn Chợ Chùa, nhác trông từ xa, ngôi chùa
Quang Phước trơ trọi giữa cánh đồng xanh. Con đường độc nhất đến chùa vắng
người qua lại, phía bên trái là các cơ quan nhà nước thuộc huyện Nghĩa Hành,
phía bên phải là cánh đồng bát ngát. Chúng tôi băng qua vài thửa ruộng là đến
cổng chùa.
Sau sự việc bắt bớ đoàn cứu trợ đồng bào
lâm cảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 1994, chính quyền cộng sản đưa Hòa thượng
Thích Huyền Quang từ chùa Hội Phước đến đây để tiếp tục quản thúc. Mặc ai đó
bên đường rình rập dòm ngó, tôi và thầy Hải Thịnh vẫn ung dung vào chùa đỉnh lễ
vấn an ngài.
Hòa thượng dạy chuyện với anh em tôi hết
sức thân tình, chúng tôi như những đứa con ở xa trở về thăm người cha già đơn
độc, được nghe những lời dạy bảo của ngài. Gian phòng ở của ngài hết sức đơn
sơ, thỉnh thoảng một vài ngọn gió từ cánh đồng thổi vào cũng không làm sao dịu
bớt hơi nóng từ mái tôn hắt xuống. Sau bữa cơm chay đạm bạc, thầy trò lại mang
chiếu gối lên chính điện để nghỉ, vì buổi trưa nắng gắt, không thể nào ở trong
phòng được. Mấy người Phật tử ở xóm chùa hàng ngày đến làm công quả, quét dọn
và lo cơm nước giúp ngài; chiều tối thì ai về nhà nấy, chỉ có một thầy vừa mới
được cắt cử đến ở lại với Hòa thượng.
Ðến chiều, chúng tôi từ giã ngài ra về,
trong lòng bịn rịn, muốn ở lại vài hôm để hầu chuyện với ngài, nhưng đâu có
được. Hòa thượng tiễn chân chúng tôi ra tận cổng chùa rồi mới trở vào.
Trên
đường về, thỉnh thoảng tôi ngoảnh lại trông quang cảnh chùa Quang Phước. Có ai
ngờ rằng, đây là một nhà tù trá hình để giam giữ một vị đại lão Hòa thượng, chỉ
vì ngài lãnh đạo công cuộc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp khốc
liệt suốt hai chục năm qua.
16
Cuộc đàn áp nước lũ
Trở lại thành phố, phòng An
ninh tôn giáo PA38 mời tôi đến làm việc, do tôi đã tự ý rời bỏ nơi bị quản chế
đi nơi khác mà không trình báo. Trong thời gian vắng mặt, tôi đi đâu, làm gì,
gặp ai, đều được viên công an tên Xuân thẩm vấn và viết vào biên bản ghi lời
khai. Tuy nhiên, sự việc chưa đến lúc phải truy cứu trách nhiệm hình sự - theo
lời của y - nếu có thể thì chỉ xử phạt hành chính, nghĩa là phải nộp tiền phạt.
Nay xét về nhiều mặt, thì lần này tôi chỉ bị cảnh cáo.
Tôi tạm thời về Bình Dương,
công an thành phố chỉ đạo địa phương làm thủ tục cho tôi tạm trú, chịu sự quản
lý của công an xã Ðông Hòa, huyện Dĩ An và phải đến trình diện hằng tháng, đúng
thời hạn quy định.
Trung tuần tháng 10 năm 1998,
báo cáo viên Liên Hiệp Quốc đặc nhiệm vấn đề đàn áp tôn giáo trên thế giới -
ông Abdelfattah Amor - đến Việt Nam để điều tra tình trạng nhà cầm quyền cộng
sản đàn áp các tôn giáo, tôi dự tính sẽ đến thiền viện Thanh Minh để xem tình hình
phái đoàn đến tiếp xúc với Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Ðạo như thế nào,
được biết ngài cũng vừa mới ra tù và hiện đang bị quản chế.
Thế nhưng, sáng sớm hôm ấy,
tôi được thông báo phải có mặt tại cơ quan PA38 để làm việc. Tôi đoán biết
chẳng có việc gì để làm, chẳng qua cơ quan an ninh muốn giữ chân tôi lại trong
ngày này. Ðúng như dự đoán, các viên công an tại đây thay nhau tiếp tôi tại
phòng hỏi cung phía bên phải cổng số 3, từ ngoài đi vào, họ bảo tôi chờ người
phụ trách làm việc là đại úy Xuân, ông ấy có công tác đột xuất vừa mới đi vắng.
Suốt cả mấy tiếng đồng hồ, những người này toàn cà kê với tôi những chuyện bâng
quơ tầm phào, tôi cáo từ ra về, nhưng họ vẫn cứ bảo tôi cố nán lại chờ đợi. Nấn
ná hồi lâu mãi đến hơn mười hai giờ trưa ông Xuân mới trở về.
Tôi tỏ ý bất mãn:
- Tại sao các ông hẹn tôi đến làm việc rồi
lại bỏ đi, để tôi phải ngồi chờ ở đây từ sáng đến giờ?
- Tôi xin lỗi, vì có việc khẩn cấp phải đi
ngay, nên tôi không kịp báo và dặn lại anh em được.
- Ông tưởng tôi không biết những việc gì
đã xảy ra sáng nay. Cơ quan các ông đã cố tình giữ chân tôi ở đây nguyên cả
buổi sáng, trong thời gian ông Abdelfattah Amor, đặc phái viên Liên Hiệp Quốc
và phái đoàn đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Ðộ.
Biết tôi đã rõ mọi chuyện,
ông Xuân nói:
- Ðúng như vậy, phái đoàn ông Amor có đến
Thanh Minh thiền viện để gặp cụ Quảng Ðộ, nhưng Phật tử ở đó đóng cửa chùa, họ
nhất quyết không đồng ý cho ông ta vào thăm.
- Ông nói với trẻ con điều đó thì được,
xưa nay cửa thiền luôn luôn rộng mở, Phật tử nào mà lại dám đi đóng cổng chùa
không cho khách vào thăm. Lực lượng công an của các ông mặc thường phục mạo
xưng Phật tử đóng cửa chùa thì có, chứ ai dám làm điều đó.
Khi ấy tôi mới biết, hôm nay
ông Abdelfattah Amor không gặp được Hòa thượng Thích Quảng Ðộ. Ông Xuân hẹn tôi
dịp khác sẽ mời đến làm việc, rồi tiễn tôi ra về.
Ngày rằm tháng tư năm Tân Tỵ
(Phật lịch 2545 - Dương lịch 2001), tôi đến dự Ðại lễ Phật đản tại chùa Liên
Trì. Thầy Thích Không Tánh cho biết, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ dự định sẽ ra
Quảng Ngãi để rước Hòa thượng Thích Huyền Quang vào Sài Gòn chữa bệnh. Ngót hai
mươi năm chịu cảnh lưu đày, sức khỏe của ngài nay có phần sút giảm.
Ðầu tháng 6 năm ấy, tôi bị
canh chừng cẩn mật, công an ngoại tuyến luôn luôn theo dõi, chính quyền suy
tính rằng, tôi có thể gia nhập phái đoàn ra miền Trung. Ngày 5 tháng 6 năm
2001, ông trưởng công an xã Ðông Hòa, huyện Dĩ An đích thân đến gửi giấy mời,
buộc tôi phải ký nhận, ngày mai tôi phải có mặt tại Ủy ban xã vào lúc 7 giờ,
theo lý do được ghi trong giấy mời: “ Báo
cáo lại việc thực hiện quyết định quản chế của tòa án”.
Ngày 6 tháng 6 năm 2001, một
cán bộ an ninh thuộc cơ quan công an PA38 - tỉnh Bình Dương - làm việc với tôi.
Trong phòng tôi thấy có một người khác chỉ ngồi đọc báo, theo tôi đoán, người
ấy đang nghe ngóng theo dõi buổi làm việc qua những cuộc đối thoại giữa tôi với
gã công an này. Sau khi yêu cầu tôi viết bản tường trình về các hoạt động trong
thời gian qua, ông ấy lập biên bản buộc tôi phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết
định quản chế của tòa án vào năm 1995. Kể từ hôm nay, cho đến ngày 13 tháng 6
năm 2001, tôi không được tự ý ra khỏi địa bàn xã Ðông Hòa, khi chưa được chính
quyền cho phép. Tình hình an ninh tiếp tục thắt chặt, công an đặt chốt canh gác
tôi suốt mấy ngày đêm một cách công khai.
Tôi tìm cách nhờ người liên
lạc hỏi thăm tình hình thì được biết, hôm ấy, Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa
Ðạo cũng bị công an ngăn chặn, ngài không thể nào rời khỏi thiền viện Thanh Minh
và vừa mới nhận thêm văn bản quyết định quản chế của chính quyền.
Thế là đảng Cộng sản đương
quyền tiếp tục mở cuộc trấn áp này sang đợt đàn áp khác. Hà Nội không từ bất cứ
một thủ đoạn nào đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, dù biết làm
như vậy là phi nghĩa, bất nhân, trắng trợn vi phạm nhân quyền và các Công ước
quốc tế mà họ đã đặt bút ký kết.
17
Lánh nạn tại xứ Chùa Tháp
Ngày 13 tháng 2 năm 2002,
theo pháp lý là đúng ngày tôi được mãn hạn năm năm quản chế. Thế là ròng rã
mười năm qua, kể từ khi mắc vòng lao lý vì tham gia hoạt động phục hồi quyền
sinh hoạt của Giáo hội truyền thống, tôi chưa hề có một ngày được sống tự do.
Nay thời gian quản chế đã
mãn, tôi hy vọng chính quyền cộng sản sẽ trả lại quyền công dân; mọi sinh hoạt,
đi lại, cư trú của tôi sẽ không còn bị hạn chế như trước nữa. Việc trước mắt là
chính quyền sẽ có thiện chí làm thủ tục nhập lại hộ khẩu cho tôi, sau mười mấy
năm bị xóa sổ. Trong cơ chế quản lý nhân hộ khẩu dưới chế độ cộng sản, đây chính
là mạch sống của người dân, giải quyết được mọi vấn đề pháp lý trong sinh hoạt
xã hội, vì thế mọi người thường nói đùa, hộ khẩu cũng chính là hậu khổ.
Tôi kiên nhẫn chờ đợi chính
quyền giải quyết các thủ tục pháp lý để có thể hòa nhập cộng đồng xã hội. Song
đã hơn hai tháng trôi qua, quyền sống của tôi vẫn bị chà đạp, chính quyền vẫn
tiếp tục quản thúc và sách nhiễu tôi mà không cho biết lý do, tôi cũng không
được nhập lại hộ khẩu và vẫn phải đi trình diện đúng hạn kỳ như trước đây. Bởi
thế cho nên, tôi chẳng còn sự chọn lựa nào khác, buộc lòng phải ra đi lánh nạn
cộng sản để tìm tự do, cho dù phải đổi lấy mạng sống hoặc chịu cảnh tù đày đi
chăng nữa!
Thầy Thích Tâm Vân và tôi kết
bạn vong niên. Chúng tôi quen nhau trong dịp đi cứu trợ đồng bào bị thiên tai
lũ lụt tại huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp vào trung tuần tháng 10 năm 1994.
Ðợt cứu trợ này được sự hổ trợ của Viện Hóa Ðạo trong nước và Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại, ban Từ thiện xã hội và Tăng đoàn bảo vệ
chánh pháp đảm nhiệm Phật sự.
Thầy Thích Tâm Vân cũng là
nạn nhân của chế độ, thường xuyên bị sách nhiễu vì thầy không chịu tham gia
Giáo hội nhà nước. Trước đây, thầy là ủy viên công cán Viện Hóa Ðạo, là người
có tinh thần phục hoạt Giáo hội. Sau những lần bàn thảo, thầy Tâm Vân và tôi
quyết định lên đường vượt biên giới sang Campuchia lánh nạn cộng sản.
Vào khoảng 3 giờ sáng, ngày
18 tháng 4 năm 2002, chúng tôi hẹn gặp nhau tại ngã tư Bình Phước (quốc lộ 13
đi Bình Dương và xa lộ Ðại Hàn) để đón xe xuôi miền Tây.
Qua những vùng sông nước chằng chịt hoặc
đầm lầy mênh mông, nhờ có người tận tình dẫn đường, nên chúng tôi đã đến được
xứ Chùa Tháp vào ngày 19 tháng 4 năm 2002. Trông xa kia là những cánh đồng còn
trơ gốc rạ; dưới ánh nắng chói chang, một đàn bò gầy ốm ung dung gặm cỏ. Thỉnh
thoảng chúng tôi băng ngang qua những
hàng cây thốt nốt, hay một vài ngôi chùa giữa làng quê hẻo lánh, cờ Phật giáo
quốc tế năm màu tung bay trước cổng chùa. Ðó đây một vài nhà sư khoác y vàng
chậm rãi từng bước một, các vị này đi khất thực theo truyền thống của giáo phái
Phật giáo Nam tông.
Giữa chốn đất khách quê người, lạc lõng
giữa phố thị, chúng tôi nơm nớp lo âu vì không có hộ chiếu nhập cảnh, lỡ không
may bị công an Campuchia xét hỏi giấy tờ thì sẽ gặp chuyện rắc rối. Nghĩ vậy
tôi bèn bàn thảo với thầy Tâm Vân:
-
Bạch thầy, giờ phút này đã đến lúc chúng ta hãy nên khẩn cấp như cứu lửa cháy
trên đầu. Con thiển nghĩ rằng, chúng ta nên đến Tòa Ðại sứ Hoa Kỳ để xin cư trú
chính trị, may ra có thể an toàn. Nếu
chần chừ, công an Việt Nam có thể tầm nã. Ở đây, mật vụ cộng sản không phải là
không có.
Nghe tôi đề nghị, thầy Tâm Vân đồng tình
ngay.
Khoảng bốn người ngồi trong vọng gác ở
cổng tòa Ðại sứ Hoa Kỳ đều là người Campuchia. Qua một vài câu trao đổi bằng
tiếng Anh, họ hiểu ngay chúng tôi từ Việt Nam sang đây xin tỵ nạn chính trị,
bèn gọi điện thoại vào bên trong báo tin. Một lát sau, hai viên chức tòa Ðại sứ
đi ra và tiếp chúng tôi tại cổng. Ðối thoại một lúc, hai bên chưa thông hiểu
lẫn nhau, vì khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của chúng tôi không được thông
thạo lắm. Một viên chức sử dụng điện thoại cầm tay bấm máy gọi cho ai đó, rồi
trao điện thoại cho thầy Tâm Vân và tôi nói chuyện. Bên kia có lẽ là một viên
chức tòa Ðại sứ sử dụng tiếng Việt sành sỏi:
-
Xin các ông cho chúng tôi biết quý danh. Ở Việt Nam, các ông đã gặp những khó
khăn gì?
Tôi trả lời:
-
Thưa ông, chúng tôi tên là Tâm Vân và Trí Lực, đều là thành viên của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp thô bạo
suốt hơn hai mươi năm qua. Hai vị lãnh đạo của chúng tôi là ngài Thích Huyền
Quang và Thích Quảng Ðộ hiện đang bị chính quyền quản thúc. Bản thân chúng tôi
đã có những hoạt động đòi hỏi tự do tôn giáo và quyền con người, nên đã bị bắt
giam và quản thúc suốt hơn mười năm nay. Chính quyền cộng sản Việt Nam hiện
đang đàn áp Giáo hội chúng tôi mỗi ngày
một thêm nghiệt ngã, bởi thế, buộc lòng chúng tôi phải vượt biên giới sang đây
xin tỵ nạn.
-
Tôi có biết sự việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị nhà cầm quyền
thẳng tay đàn áp ở Việt Nam. Nay các ông đến đây cần chúng tôi giúp đỡ điều gì?
-
Thưa ông, chúng tôi mong muốn được tòa Ðại sứ Hoa Kỳ chấp thuận cho chúng tôi
tỵ nạn chính trị và không bao giờ chúng tôi muốn bị giao trả về Việt Nam.
- Ồ,
không có điều đó đâu, làm sao mà chúng tôi có thể giao trả các ông. Thế nhưng,
đất nước chúng tôi mới trải qua biến cố ngày 11 tháng 9 vừa qua, hiện giờ chưa
ổn định, các ông muốn sang đất nước chúng tôi làm gì?
-
Thưa ông, chúng tôi thành thật chia sẻ nỗi đau thương mất mát của chính phủ và
nhân dân Hoa Kỳ. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 là một cuộc khủng bố kinh
hoàng chưa từng có. Thế nhưng, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ là một đất nước luôn luôn
tôn trọng tự do, dân chủ và nhân quyền; bởi thế, chúng tôi khát khao được sống
trong một đất nước tự do.
-
Cảm ơn các ông đã có lời chia buồn với chúng tôi. Nhưng tòa Ðại sứ chúng tôi không
tiếp nhận người tỵ nạn. Các ông hãy thông cảm và nên đến Cao ủy Tỵ nạn Liên
Hiệp Quốc để trình bày hoàn cảnh, chúng tôi hy vọng các ông sẽ được giúp đỡ.
Cuộc trao đổi giữa chúng tôi và các viên
chức tòa Ðại sứ Hoa Kỳ ở Phnom Penh trong bầu không khí hết sức chân tình và
thông cảm lẫn nhau. Các vị ấy không quên ghi cho chúng tôi địa chỉ văn phòng
Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR). Chúng tôi trân trọng cảm ơn và kính chào
tạm biệt.
Ðã gần 4 giờ chiều, chúng tôi tìm được phủ
Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, tọa lạc tại số 2, đường 352, thủ đô Phnom Penh.
Hôm ấy, nhằm ngày thứ sáu cuối tuần, giờ này văn phòng đã nghỉ làm việc, nên
các nhân viên bảo vệ dặn chúng tôi sang ngày thứ hai tuần tới hãy trở lại.
Tôi đi tìm trạm điện thoại công cộng liên
lạc với thầy Thích Vân Ðàm ở Hoa Kỳ là pháp hữu của tôi và ông Võ Văn Ái ở Pháp
để báo tin, đồng thời nhờ các vị ấy vận động can thiệp.
Nhờ hỏi thăm một người qua đường, chúng
tôi mướn được một chỗ trọ rẻ tiền, không có phòng mà chỉ ngủ nghỉ ở gác gỗ bên
hàng hiên.
Thứ hai ngày 22 tháng 4 năm 2002, chúng
tôi trở lại phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc để nộp hồ sơ xin tỵ nạn và được
ông Mony tiếp nhận. Mấy ngày sau,theo giấy hẹn đến phỏng vấn, vì không có thông
dịch viên nên ông ấy cứ lần lữa hẹn rày hẹn mai; tuy nóng lòng nhưng chúng tôi
cũng đành phải kiên nhẫn đợi chờ. Sở dĩ trễ nải như thế, vì hiện đang vào thời
kỳ Liên Hiệp Quốc tập trung phỏng vấn khoảng một nghìn người Thượng Tây Nguyên
tại trại tỵ nạn Phnom Penh; số người này bị chính quyền cộng sản Việt Nam đàn
áp trong các cuộc biểu tình đòi hỏi tự do tôn giáo và đòi lại đất đai của họ bị
chiếm đoạt, sự biến xảy ra vào đầu năm 2001.
Trong thời gian chờ đợi phỏng vấn, một vị
thầy trú trì ngôi chùa vùng Xóm Mới, ngoại ô thành phố Phnom Penh, đã hoan hỷ
cho thầy Tâm Vân và tôi ẩn thân. Nhưng có lẽ do bị chỉ điểm, công an Campuchia
bèn vào chùa xét hỏi, bởi thế, chúng tôi đành phải rời khỏi ngôi chùa này. Sau
đó, nhờ gặp được vài người tốt bụng thuộc Phật giáo Hòa Hảo, họ đã nhiệt tình
giúp đỡ chúng tôi nơi ăn chốn ở.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét