18
Cao ủy tỵ nạn
Liên Hiệp Quốc
phỏng vấn
Trung tuần tháng 5 năm 2002, bà Sara Colm - một viên chức thuộc
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) phụ trách Á châu - mời chúng
tôi đến văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, tọa lạc tại đường Mao Trạch
Ðông (Mao Tse Tung Blvd) ở Phnom Penh để phỏng vấn, giáo sư Võ Văn Minh là người
thông dịch. Bà ấy hứa sẽ làm hết sức mình để can thiệp cho chúng tôi. Trước khi
ra về, bà không quên căn dặn chúng tôi phải hết sức cảnh giác, vì đã xảy ra nhiều
vụ công an Việt Nam bắt cóc người tỵ nạn ở đây.
Sau này tôi được biết, ông Võ Văn Ái ở
Pháp đã liên lạc và gửi gắm chúng tôi cho bà Sara Colm, nên mới có buổi gặp gỡ
này. Trong thời gian chờ đợi Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, chúng tôi
như sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, bởi có nguy cơ sẽ bị công an mật vụ Việt
Nam lùng bắt bất cứ lúc nào.
Thế rồi, ngày tôi hằng mong đợi đã đến.
Ông Mony viết giấy hẹn tôi đến phỏng vấn vào lúc 14 giờ, ngày 31 tháng 5 năm
2002. Tôi đi bộ ngang đài Ðộc Lập, thấy thời gian còn sớm bèn vào ngôi chùa lớn
ở gần đó để lễ Phật và nghỉ chân. Tôi tiếp tục đi dọc theo đường Norodom, đến
ngã ba đường số 352, tôi nhìn thấy hai người lảng vảng dưới bóng cây bên góc
đường, ánh mắt họ nhìn tôi ra vẻ dò xét. Tôi dừng chân dưới bóng cây xoài phía
trước Phủ Cao ủy, mấy nhân viên bảo vệ vui vẻ ra hiệu cho tôi đến ký tên vào sổ
và nhận thẻ kiểm soát.
Ngồi chờ một chốc ở dãy ghế đặt trước hàng
hiên, ông Mony dẫn tôi lên phòng làm việc ở lầu một rồi trở ra. Tôi kiểm lại
các giấy tờ mang theo và hy vọng tràn trề, chiều hôm nay, mình sẽ được Cao ủy
phỏng vấn sau gần một tháng rưỡi sang đây. Khoảng mười phút sau, ông Mony trở
vào phòng, đi theo là một viên chức phốp pháp, trên tay hai người đều mang hồ
sơ dày cộm. Tôi đứng dậy gật đầu chào, hai vị ấy mỉm cười chào lại và đưa tay
ra dấu mời tôi ngồi xuống. An tọa xong, viên chức kia giới thiệu ông Mony bằng
tiếng Việt hết sức sành sỏi. Ông ấy nói tiếp:
-
Tôi tên là Göran Rosén, đã từng sống và làm việc ở Việt Nam gần hai mươi năm
nay, tôi cũng vừa mới từ Việt Nam về. Trong buổi phỏng vấn hôm nay, tôi sẽ là
người thông dịch. Tôi đã đọc kỹ hồ sơ xin tỵ nạn của ông, xin ông có thể cho
tôi được gọi ông bằng thầy trong cách xưng hô.
Tôi mỉm cười đáp lại:
-
Tôi rất lấy làm hân hạnh được gặp hai ngài, và tùy quý ngài muốn gọi thế nào cũng được.
Hai viên chức phủ Cao ủy Tỵ nạn thong thả
soạn các hồ sơ ra giữa bàn. Bất chợt tôi thoáng nhìn thấy một văn bản tiếng
Anh, trên góc trái có in huy hiệu đặc biệt của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc
tế hết sức quen thuộc, cạnh đó là một văn bản có in dòng chữ Human Rights Watch
(Tổ chức Theo dõi Nhân quyền). Tôi suy đoán rằng, như vậy là những thông tin
liên lạc của tôi ở Campuchia đã được Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Ủy
ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tiếp nhận. Nay ông Võ Văn Ái đã gửi thư
nhằm can thiệp với phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc về tình trạng của tôi. Thêm
nữa, tôi đoán chừng bà Sara Colm cũng đã gửi văn bản đến phủ Cao ủy, ngõ hầu
can thiệp cho thầy Tâm Vân và tôi sau buổi phỏng vấn vừa qua tại văn phòng Cao
ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh.
Tôi chăm chú lắng nghe ông Göran Rosén nói
một cách chậm rãi từng câu tiếng Việt rất chuẩn và rõ ràng:
- Hôm nay, chúng tôi đại diện Phủ Cao ủy
Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc tiến hành phỏng vấn thầy. Sau đó, chúng tôi sẽ xem xét
thầy có đủ tư cách và điều kiện để hưởng quy chế tỵ nạn chính trị hay không?
Chúng tôi có bổn phận giữ kín nội dung trao đổi, nghĩa là sẽ không công bố các
vấn đề được nêu ra trong buổi tiếp xúc này. Nếu xét thấy chưa hội đủ tiêu chuẩn
để hưởng quy chế tỵ nạn, thì chúng tôi sẽ giới thiệu thầy đến gặp luật sư về
công pháp quốc tế, để nhờ vị ấy giúp đỡ.
Nói đến đây, ông Göran quay sang nói
chuyện với ông Mony bằng tiếng Anh, đoạn ông ấy nói tiếp:
-
Theo nguyên tắc, một người được gọi là tỵ nạn, người ấy phải từ một đất nước
khác đến đây là quốc gia thứ hai. Sau khi được công nhận quyền tỵ nạn, Liên
Hiệp Quốc sẽ điều đình xem có quốc gia thứ ba nào chấp thuận cho người ấy định
cư, văn phòng Cao ủy sẽ làm thủ tục cho người ấy ra đi. Như vậy, người Campuchia
không thể đến đây xin tỵ nạn, mà phải đi đến một đất nước khác. Nay thầy hãy
cho chúng tôi biết, ở Việt Nam, thầy đã gặp phải tình cảnh như thế nào mà phải
sang đây lánh nạn và cần Phủ Cao ủy chúng tôi giúp đỡ?
Tôi tập trung suy nghĩ và sắp xếp trình tự
câu trả lời ngắn gọn, ông Göran dịch lại từng đoạn ngắn bằng tiếng Anh cho ông
Mony hiểu. Thỉnh thoảng họ ghi chép vào biên bản phỏng vấn và sổ tay những ý
tưởng tôi vừa trình bày. Tôi trả lời:
- Thưa quý ngài, trước hết tôi chân thành
cảm ơn Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã dành cho tôi buổi phỏng vấn hôm nay. Kể
từ khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm
quyền cộng sản đã đặt ách thống trị hà khắc, đang tâm đàn áp Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất chúng tôi một cách thô bạo và hết sức nghiệt ngã. Ðây là
Giáo hội truyền thống được kế thừa trải qua gần hai nghìn năm lịch sử. Nhiều vị
trong hàng Giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội bị cầm tù hoặc bị quản thúc, các vị khác
đành phải bỏ quê hương đất nước ra đi, vượt qua muôn nghìn hiểm nguy sóng gió
trên biển Ðông để đến được bến bờ tự do. Hiện nay, hai ngài lãnh đạo Giáo hội
là Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ đang bị quản thúc nghiêm
ngặt.
Năm 1992, ngài Thích Ðôn Hậu viên tịch tại
chùa Linh Mụ, đã để lại chúc thư phó thác cho ngài Thích Huyền Quang tiếp tục
điều hành Phật sự Giáo hội. Bản thân tôi đã có những hoạt động đòi hỏi tự do
tôn giáo, qua công cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tôi bị chính quyền Cộng sản bắt ngày 2 tháng 10
năm 1992, cùng lúc với ngài Thích Không Tánh và giáo sư Nhật Thường. Một thời
gian sau, chúng tôi được thả và bị quản thúc vô thời hạn.
Ngày 6 tháng 11 năm 1994, chúng tôi tham
gia cứu trợ đồng bào lâm cảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long do ngài Thích
Quảng Ðộ tổ chức, chúng tôi lại bị bắt giam. Ngày 15 tháng 8 năm 1995, tòa án
Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra án quyết phạt tôi ba mươi tháng tù giam và
năm năm quản chế. Ðáng lẽ tôi được mãn án vào đầu năm 2002, thế nhưng nhà cầm
quyền cộng sản vẫn tiếp tục quản thúc tôi, quyền sống của tôi bị chà đạp, bởi
thế tôi đành phải tìm đường vượt biên giới sang đây lánh nạn.
Ông Göran Rosén hỏi:
- Thầy vượt qua biên giới hai nước vào
ngày nào?
- Tôi vượt biên giới và đặt chân đến xứ
Chùa Tháp vào ngày 19 tháng 4 năm 2002.
- Khi đi thầy có hộ chiếu thông hành hay
không?
- Thưa không, làm sao tôi có thể được cấp
hộ chiếu trong khi tôi không có hộ khẩu.
-
Tại sao thầy không có hộ khẩu?
- Theo luật pháp Việt Nam, người nào bước
chân vào tù là đã bị chính quyền địa phương xóa tên trong sổ hộ khẩu.
- Khi mãn hạn năm năm quản thúc, chính
quyền cho thầy nhập lại hộ khẩu hay không?
- Thưa không.
Sau khi nói chuyện với ông
Mony, ông Göran hỏi tiếp:
- Các bị cáo trong phiên tòa gồm có những ai? Tất cả bị kết án về tội
danh gì?
- Các bị cáo trong phiên tòa hôm ấy gồm có
quý ngài Thích Quảng Ðộ, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, thầy Nhật Thường,
Phật tử Ðồng Ngọc và tôi. Chúng tôi bị kết án theo hai tội danh: “ Phá hoại
chính sách đoàn kết ” và “Lợi dụng các
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước”.
-Sau khi kết án, chính quyền giam giữ
thầy ở đâu?
- Sau khi tòa phán quyết bản án, tôi bị
giam giữ tại trại Z30A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai.
Ông Göran gật đầu:
- Ðã có lần tôi đến trại Xuân Lộc.
Tôi lấy các giấy tờ liên quan
trong thời gian bị cầm tù và quản thúc trao cho ông Göran, ông ấy xem từng văn
bản và lần lượt giải thích cho ông Mony hiểu. Hai vị ấy thay nhau hỏi tôi thêm
một vài sự việc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những nguyên nhân
đưa đến sự lánh nạn của tôi hôm nay.
Ông Mony lần lượt ghi vào tập
hồ sơ phỏng vấn.
Sau khi nói lời kết thúc, hai
viên chức ấy hẹn tôi có mặt tại văn phòng Cao ủy vào sáng thứ hai tuần tới.
Chúng tôi chào tạm biệt.
Tôi bước chân ra về trong
niềm vui lâng lâng, cơn mưa lớn ban chiều cũng vừa tạnh hẳn. Tôi ghé qua trạm
điện thoại bên đường gọi cho anh Võ Thành Vinh, nhờ anh ấy chuyển lời lại với
bà Sara Colm, báo tin cho bà ấy biết, rằng hôm nay tôi đã được Cao ủy Tỵ nạn
phỏng vấn và xin có lời cảm ơn bà rất nhiều.
Ngày 3 tháng 6 năm 2002, tôi
được phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh cấp giấy tạm thời trong lúc
chờ đợi cứu xét được hưởng quy chế tỵ nạn. Cơ quan trực thuộc Cao ủy Tỵ nạn là
Jesuit Refugee Service (J.R.S) ở Campuchia cấp phát cho người tỵ nạn tám mươi
lăm Mỹ kim mỗi tháng, nhờ đó, tôi có thể đắp đổi qua ngày.
Tôi gửi thư liên lạc với thầy
Thích Vân Ðàm và ông Võ Văn Ái, báo tin về việc phỏng vấn và đã có giấy chứng
nhận tạm thời. Bước đầu như thế, tôi nghĩ rằng tương đối khả quan.
19
Được hưởng quy chế tỵ
nạn
Thầy Tâm Vân gửi thư vấn an
Hòa thượng Thích Giác Lượng, Phó Chủ tịch Hội đồng điều hành Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất hải ngoại, đặc trách giải trừ pháp nạn. Chúng tôi nhận được
thư hồi âm của ngài với lời lẽ thăm hỏi và động viên chúng tôi hết sức đạo
tình.
Thầy Thích Vân Ðàm gửi thư
hồi âm cho chúng tôi biết, thầy đã trình sự việc lên chư tôn đức trong Giáo hội
để quan tâm chiếu cố bảo lãnh thầy Tâm Vân và tôi, chúng tôi hy vọng được đi
định cư ở Hoa Kỳ.
Ngày 12 tháng 6 năm 2002, tôi
viết một bức tâm thư tường trình dâng lên nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang
và Thích Quảng Ðộ, kính vấn an đỉnh lễ chư tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện,
thỉnh cầu Giáo hội can thiệp cho chúng tôi sớm được hưởng quy chế tỵ nạn.
Hạ tuần tháng 6 năm 2002, tôi
đến văn phòng Cao ủy để bổ túc giấy tờ, tình cờ tôi gặp ông Göran Rosén trước
sân, khi xe đưa ông đến làm việc. Gặp lại tôi, ông vui vẻ chào hỏi, chúng tôi
nói chuyện một lát, khi đó tôi mới biết ông ấy là người Thụy Ðiển. Ông Göran
nhờ tôi nhắn lại với thầy Tâm Vân, rằng sáng mai mời cả hai người đến vãn
phòng, để ông có việc cần trao đổi. Tôi đến báo tin cho thầy Tâm Vân hay, đúng
giờ hẹn, chúng tôi cùng đi.
Ông Göran Rosén niềm nở tiếp
chúng tôi tại phòng làm việc. Ông ấy hỏi thăm thầy Tâm Vân một số vấn đề để bổ
túc vào hồ sơ. Ðến 12 giờ, ông có nhã ý mời chúng tôi đi ăn trưa, có bà Sara
Colm chờ chúng tôi ở ngoài, ông ấy sẽ đến sau.
Tại một khu yên tĩnh gần đó,
bốn người chúng tôi cùng trao đổi chuyện trò vui vẻ. Bà Sara Colm chuyển lại
cho chúng tôi món quà của đạo hữu Nguyên Thái Võ Văn Ái và Hồng Chi Ỷ Lan ở
Pháp gửi biếu, chúng tôi vô cùng cảm kích trước đạo tình thắm thiết của quý đạo
hữu ấy đã dành cho chúng tôi.
Bà Sara Colm trong Tổ chức
Theo dõi Nhân quyền nói chuyện với tôi qua lời phiên dịch của ông Göran, đề
nghị tôi viết một bản phúc trình về các nhân vật bất đồng chính kiến hiện đang
còn bị giam giữ tại trại giam Xuân Lộc, ngõ hầu tổ chức này có đủ cơ sở để can
thiệp với chính phủ Việt Nam trả tự do cho các vị ấy. Bà ấy cho biết, đây là
một việc làm mang tính cách nhân đạo, nên tôi hoan hỷ nhận lời.
Tôi khởi sự ngay vào việc
viết bản phúc trình về hiện trạng tù nhân chính trị ở Việt Nam đề ngày 26 tháng
6 năm 2002 để gửi cho hai vị ấy.
Ðêm 28 tháng 6 năm 2002, thầy
Tâm Vân nhận được điện thoại của ông Göran gọi đến, ông ấy mời chúng tôi có mặt
tại văn phòng Cao ủy vào ngày mai. Mặc dầu đêm đã dần khuya, thầy cũng nhiệt
tình đến nơi tôi tạm trú để thông báo tin này.
Ngày 29 tháng 6 năm 2002,
chúng tôi y hẹn và có mặt tại văn phòng làm việc của ông Göran Rosén. Ðang ngồi
chờ trong phòng, thì ông Göran mở cửa bước vào, theo sau là bà Sara Colm và một
nữ viên chức khác. Sau khi chào hỏi theo phép xã giao, ông Göran giới thiệu với
chúng tôi, nữ viên chức đó là bà Elizabeth Kirton, trưởng văn phòng Cao ủy Tỵ
nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh, Cambodia. Khi mọi người an tọa, ông Göran nói
một cách trịnh trọng:
- Sau một thời gian xem xét hồ sơ, chúng
tôi nhận thấy sự việc của hai thầy hết sức rõ ràng. Do đó, phủ Cao ủy quyết
định cấp giấy chứng nhận quy chế tỵ nạn chính trị cho hai thầy. Kể từ hôm nay,
hai thầy được quyền cư trú trên toàn lãnh thổ Cam-Bốt dưới sự bảo vệ của Liên
Hiệp Quốc, để chờ đi định cư ở một đệ tam quốc gia. Chúng tôi xin chúc mừng hai
thầy.
Thẻ chứng nhận quy chế tỵ nạn |
Nói xong, ông Göran Rosén
trao thẻ tỵ nạn cho chúng tôi. Thầy Tâm Vân và tôi nói lời cảm tạ, bày tỏ lòng
biết ơn sâu xa đến Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc và các tổ chức bảo vệ nhân
quyền.
Tôi nói tiếp:
- Chúng tôi hết sức vui mừng khi được hưởng quy chế tỵ nạn. Tuy nhiên,
con đường phía trước sẽ còn nhiều hiểm trở chông gai, không chắc gì suông sẻ.
Chúng tôi luôn luôn đặt vào tình huống có thể bị công an mật vụ Việt Nam vây
bắt bất cứ lúc nào; bởi vậy, xin đề nghị quý vị cho chúng tôi vào trại tỵ nạn.
Ông Göran dịch sang tiếng Anh
cho hai bà ấy hiểu ý của tôi vừa trình bày, sau đó trả lời:
- Trại tỵ nạn chỉ dành riêng cho người
Thượng Tây Nguyên, các thầy không thể vào đó được.
Ông Göran không nêu lý do tại
sao chúng tôi không được vào trại tỵ nạn ở Phnom Penh. Ông ấy quay sang nói
chuyện với bà Elizabeth Kirton và Sara Colm, có lẽ các vị ấy trao đổi ý kiến gì
đó. Một lát sau, ông Göran nói với chúng tôi:
- Xin lỗi, nảy giờ chúng tôi bàn bạc về việc sắp xếp chỗ ở cho hai
thầy. Chúng tôi nghĩ, có lẽ sẽ tìm một gia đình người Campuchia thân tín nào đó
để gửi gắm hai thầy.
Bà Elizabeth Kirton nói tiếp
và được ông Göran dịch lại:
- Ðầu tháng 7 sắp đến, tôi có tham dự phiên họp với Ðại sứ quán Hoa Kỳ
ở Phnom Penh. Ðặc biệt, tôi sẽ nêu vấn đề của hai thầy trong nghị trình thảo
luận, để Ðại sứ quán xem xét giải quyết, ngõ hầu chấp thuận cho hai thầy sớm đi
định cư. Nay mai, văn phòng Cao ủy Tỵ nạn sẽ làm thủ tục gửi danh sách của hai
thầy đến bộ Nội vụ Cam-Bốt, để thông báo với chính phủ hoàng gia về những người
được quyền cư trú trên lãnh thổ vương quốc này, dưới sự bảo vệ của Liên Hiệp
Quốc, theo Công ước Quốc tế mà chính phủ Cam-Bốt đã ký kết vào năm 1951.
Bà Sara Colm vui vẻ tươi cười
chúc mừng chúng tôi. Ông Göran còn dặn dò thêm:
- Tuần sau, tôi bắt đầu đi nghỉ hè khoảng
bốn mươi lăm ngày. Trong thời gian vắng mặt, tôi sẽ ủy nhiệm công việc cho một
viên chức ở văn phòng. Ðây là tên và số điện thoại của người ấy để hai thầy tiện
liên lạc. Hãy nhớ rằng, đừng đi đâu xa và không nên ra khỏi Phnom Penh. Văn
phòng Cao ủy sẽ cố gắng sắp xếp chỗ ở an toàn cho hai thầy trong thời gian sớm
nhất. Chúc hai vị may mắn.
Chúng tôi tỏ lời cảm ơn các
viên chức này một lần nữa rồi chào tạm biệt.
Cầm tấm thẻ chứng nhận quy
chế tỵ nạn trong tay, tôi như người đang lênh đênh giữa biển khơi sóng gió may
vớ phải chiếc phao; tựa hồ kẻ lạc lõng giữa đêm trường u tối gặp được đốm lửa
soi đường; trong lòng mình bỗng dâng lên một niềm cảm xúc khôn nguôi.
20
Những mối âu lo
Ðầu tháng 7 năm 2002, tôi
nhận được thư thăm hỏi của quý vị Tăng Ni ở Nhật Bản; đạo hữu Nguyễn Thị Chánh
pháp danh Tâm Thanh ở San Diego cùng các Phật tử ân nhân ở Hoa Kỳ; đạo hữu
Nguyễn Viết Cập pháp danh Phúc Thắng ở Sydney và gia đình họ Nguyễn Viết định
cư ở Úc Ðại Lợi. Hãy còn biết bao vị ân nhân khác, đã niệm tình cứu giúp chúng
tôi trong cảnh ngặt nghèo giữa chốn đất khách quê người.
Nay đạo hữu Phật tử Phúc
Thắng và Phật tử Tâm Thanh đã từ giã cõi đời, tôi thành kính đốt một nén hương
lòng tưởng niệm Hương linh và cầu nguyện chư vị tiêu diêu miền Cực Lạc.
Trung tuần tháng 7 năm 2002,
ông Vũ Quốc Dụng - viên chức thuộc Hiệp hội Nhân quyền Quốc tế (ISHR) đặc trách
Á châu - gửi thư thăm hỏi về hiện tình của tôi ở Campuchia, đồng thời tổ chức
này muốn tìm hiểu thêm về tình hình Tãng Ni Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất ở quê nhà, sau khi Hòa thượng Thích Quảng Ðộ bị chính quyền
cộng sản ra lệnh quản thúc hồi năm ngoái. Ngoài ra, ông Vũ Quốc Dụng còn gửi
cho tôi bản Quyết nghị của Quốc hội Cộng hòa Liên bang Ðức tại Berlin thông qua
ngày 28 tháng 6 năm 2002, về tình trạng nhân quyền và người thiểu số tại Việt
Nam.
Thầy Thích Tâm Vân đến tá túc
tại một ngôi chùa tọa lạc gần cầu Saigon ở Phnom Penh, nơi khu nhà người Việt
bị hỏa hoạn thiêu rụi năm kia. Vừa mới ở một sớm một chiều, thầy được một người
tốt bụng thông tin, rằng tòa Ðại sứ Cộng sản Việt Nam ở Phnom Penh căn dặn một
số Việt kiều thân tín với họ, nếu thấy hai thầy lạ mặt từ Việt Nam mới sang,
thì phải báo tin ngay cho tòa Ðại sứ biết. Nghe thế, thầy Tâm Vân vội vàng rời
khỏi chùa ấy ngay.
Hôm nọ, tôi đến thăm thầy Tâm
Vân vào buổi chiều ngày rằm tháng 6 Âm lịch (2002), thầy kể rõ chuyện vừa mới
xảy ra ban sáng, có vài người lạ mặt lùng bắt thầy, khi thầy đến làm lễ quy y
cho Phật tử tại một ngôi chùa cách trung tâm thành phố Phnom Penh chừng mười
cây số. Nhờ điện thoại thông báo kịp thời cho phủ Cao ủy Tỵ nạn, các viên chức
Liên Hiệp Quốc lập tức đến nơi, các kẻ lạ mặt ấy tức khắc giải tán, nhờ thế
thầy được an toàn.
Trước diễn biến sự việc như
vậy, chúng tôi đoán biết tình hình đã đến lúc vô cùng nguy khốn, bọn công an
mật vụ cộng sản Việt Nam đang sục sạo chúng tôi khắp nơi. Trong lúc tôi chưa
tìm được một nơi để lánh thân, vì chỗ ở cũ thế nào cũng bại lộ, không biết
chuyện gì rồi đây sẽ xảy ra?
21
Mật vụ cộng sản bắt cóc
Thứ năm, ngày 25 tháng 7 năm
2002...
Mấy hôm nay trời nắng gắt sau
những cơn mưa rào đầu tuần. Xóm nhà tôi ở trọ gặp mưa xuống thì đường sá lầy
lội, nắng ráo thì bụi bặm mịt mù. Sáng nào cũng có năm bảy nhà sư trì bình khất
thực đi ngang từng nhà; các tín đồ đạo Phật đã chuẩn bị cơm nước sẵn từ sớm, họ
lần lượt cúng dường từng vị sư với một tấm lòng thành kính. Các nhà sư theo
truyền thống Phật giáo Nam tông, còn gọi là Phật giáo Nguyên thủy, sinh hoạt
tựa như Tăng đoàn thời kỳ Ðức Phật tại thế.
Ở xứ Chùa Tháp, tuy rằng Phật
giáo là quốc giáo, nhưng đất nước này đặc biệt tôn trọng tự do tôn giáo một
cách bình đẳng.
Hằng ngày, khắp các nẻo đường ở thủ đô
Phnom Penh, tôi thấy có rất nhiều nhà truyền giáo người nước ngoài đi giảng đạo
và thu nạp tín đồ; hoặc Cơ đốc giáo, Tin lành hay Hồi giáo v.v… Các tổ chức
truyền giáo này lập nên các cơ sở sinh hoạt tôn giáo như hành lễ, giảng đạo,
học tập giáo lý, từ thiện xã hội, mà chính phủ vương quốc chẳng bao giờ cấm
đoán hoặc ngăn trở họ.
Vừa qua, tôi có nhân duyên đến viếng thăm
ngôi mộ Ðức Hộ pháp Phạm Công Tắc, vị Giáo chủ sáng lập đạo Cao Ðài, còn gọi là
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, khởi nguyên từ Tòa thánh Tây Ninh. Lăng mộ tọa lạc ngay
thủ đô Phnom Penh, trên phần mộ có mái che mưa nắng, bàn thờ phía trước phụng
tự hết sức trang nghiêm. Khoảng sân rộng bên ngoài được lát toàn gạch bông và
trưng bày những chậu kiểng đẹp mắt.
Trong thời kỳ Việt Minh, ngài bị truy bức
nên phải sang Cam Bốt lánh nạn, rồi xả bỏ nhục thân ở đây. Một thánh thất đơn
sơ trong khuôn viên nhỏ được các Chức sắc ở đây tạo lập, làm nơi lễ bái tụng
niệm và sinh hoạt tín ngưỡng. Nghe nói cách đây không lâu, ở Việt Nam cử các
Chức sắc đại diện sang đây đàm phán với các vị chủ quản, đề nghị cải táng di
hài Ðức Hộ pháp, thỉnh về an trí ở Tòa thánh Tây Ninh. Các Chức sắc ở đây cho
rằng, những vị kia chỉ vâng theo ý đồ của ban Tôn giáo chính phủ ở Hà Nội, vì
thế họ không đồng ý. Bởi lý do rằng, ngài có để lại di chúc căn dặn, bao giờ
chế độ cộng sản ở đất nước Việt Nam lụi tàn, thì khi đó hẵng đưa di cốt ngài
trở về quê hương xứ sở.
Hôm nay, tôi nghĩ bụng, ngày mai nhằm ngày
thứ sáu, văn phòng Cao ủy có giờ mở cửa tiếp người tỵ nạn. Tôi dự định sẽ đến
gặp viên chức được ông Göran Rosén ủy nhiệm để trình bày mối nguy cơ mà chúng
tôi có thể gặp phải. Nếu không tìm được một nơi cư trú an toàn, cứ tiếp tục
cảnh sống lưu vong như thế này thì chúng tôi rất dễ dàng gặp sự hiểm nguy.
Ánh tà dương chưa tắt hẳn,
tôi rảo bộ ra hướng chợ Orussey để mua một ít đồ dùng. Dọc con đường mang số
185 trước khu chợ, giờ này đã tấp nập kẻ bán người mua; hàng quán thức ăn bày
biện đủ thứ bên đường, lấp ló dưới những ngọn đèn dầu, khói đen bốc um. Chiều
xuống, khi những gian hàng lớn nhỏ bên trong chợ Orussey đóng cửa, mọi người
lại tiếp tục họp chợ bên lề đường, phố xá nhộn nhịp hẳn lên. Dân chúng lao
động, nhất là ở các vùng nông quê, họ tập trung về thành phố và đem sức mình,
làm đủ mọi thứ công việc để kiếm tiền. Sau một ngày làm việc cật lực, phần đông
họ đến đây để mua cơm nước thức ăn được nấu sẵn, khỏi phải lo bếp núc nồi niêu.
Trời vừa nhá nhem tối, tôi
dừng chân ở một quán hàng xén bên đường để mua đồ. Khi quay người lại, thình
lình có một gã vóc dáng cao lớn đứng ngay sau lưng tôi dang tay chận lại, một
vài tên khác xông vào trước mặt tôi khống chế. Trong giây phút bất thần đó, tôi
biết là mình đã bị bắt cóc, chúng theo dõi và bám sát khi tôi rời khỏi nhà mà
tôi chẳng hề hay biết. Tôi la cứu, tiếng kêu thất thanh vì hoảng hốt, đông đảo
người chung quanh chỉ dáo dác đứng nhìn, họ toàn là dân bản xứ, có lẽ họ nghĩ
đơn thuần, đây là một vụ bắt người phạm tội xảy ra thường tình.
Tiếng kêu cứu của tôi hoàn
toàn tuyệt vọng, những tên bắt cóc đẩy mạnh tôi lên một chiếc xe đã chờ sẵn bên
đường, tên cuối cùng bước nhanh lên xe ngồi bên tay phải tôi, y đóng sầm cánh
cửa rồi ra lệnh cho gã tài xế phóng nhanh. Tôi chưa kịp ngồi xuống, thì mấy tên
nước da ngâm đen ngồi ở hàng ghế sau chồm tới còng tay tôi lại, vừa trấn lột
ngay chiếc đồng hồ đeo tay. Bọn chúng xúm nhau đánh vào mặt tôi túi bụi, một
tên khác rút ngay chiếc ví trong túi quần có thẻ tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc và
tiền bạc. Trong khi đó, tên ngồi bên phải tôi vòng cánh tay trái của y siết
mạnh cổ tôi nhiều lúc ngạt thở.
Một tên khác ngồi ngay sau
lưng gã tài xế với vẻ mặt quằm quặm, y quay sang hỏi tôi bằng tiếng Việt với
giọng chính gốc người Việt nói tiếng mẹ đẻ:
- Ông hãy ngồi yên, đừng la lối lớn tiếng,
ông sang đây có hộ chiếu hay không?
Cánh tay tên đang siết cổ tôi
hơi thả lỏng một chút, tôi thẳng thắn trả lời:
- Tôi sang đây xin tỵ nạn chính trị, thẻ
chứng nhận quy chế tỵ nạn của tôi các ông vừa mới trấn lột, tôi được quyền cư
trú trên lãnh thổ Campuchia dưới sự bảo vệ của Liên Hiệp Quốc. Tôi không hề vi
phạm pháp luật của đất nước này, cớ sao các ông lại bắt cóc và hành hung tôi?
Bọn chúng trên xe thảy đều im
lặng.
Tên vừa mới hỏi tôi ban nãy
liên tục bấm điện thoại cầm tay liên lạc bằng tiếng Campuchia với những kẻ đồng
sự tổ chức bắt cóc tôi. Có lẽ những tên kia đang chặn chốt các nẻo đường, phòng
khi tôi chạy thoát từ chợ Orussey, bọn chúng có thể vây bắt tôi.
Xe vẫn phóng nhanh trên đại
lộ kinh hoàng, ánh đèn điện ở các dãy phố xá hai bên lùi dần. Khoảng gần nửa
giờ sau, xe quẹo vào một cơ quan lớn, người gác cổng nhanh chân đến mở thanh
chắn ngang cho xe chạy thẳng vào. Dưới những ngọn đèn điện sáng choang, tôi đọc
được dòng chữ International Police (Cảnh sát Quốc tế).
Một ý nghĩ thoáng qua trong
tâm trí tôi, nay chính quyền cộng sản Việt Nam đang giở những trò mánh khóe xảo
trá, hòng lừa bịp luôn cả tổ chức quốc tế này. Nhất định Hà Nội đang lập lờ
đánh lận con đen, chúng có thể ngụy tạo hồ sơ hình sự, gán ép nhân thân tôi như
là một tội phạm truy nã quốc tế. Chắc chắn rằng, bọn bắt cóc đưa tôi đến đây,
nhằm hợp pháp hóa hồ sơ và thủ tục dẫn độ tôi về Việt Nam.
Một chiếc xe hơi loại bốn chỗ
ngồi đậu sẵn trước sân, những tên bắt cóc ra lệnh cho tôi xuống xe rồi chuyển
sang chiếc xe này, tôi ngồi ở hàng ghế sau, có hai tên ngồi kèm bên cạnh.
Không đầy vài phút, xe chuyển
bánh rời cơ quan Cảnh sát Quốc tế. Chiếc xe chở những tên bắt cóc chạy trước;
ngồi ở xe sau, qua ánh đèn pha, tôi đọc được rõ ràng biển số xe có hai mẫu tự
Khmer ++2-2475. Xe chạy một đỗi, bọn chúng đưa tôi vào một cơ quan công an tọa
lạc gần bùng binh múi cầu Saigon ở Phnom Penh, đã có lần tôi đi ngang đây nên
trông rất quen thuộc. Xe đậu ngay giữa sân, bọn chúng xuống xe hết, chỉ còn một
mình tôi ngồi lại, có mấy tên đứng bên ngoài xe canh chừng tôi. Cửa xe đóng bịt
bùng, tôi bèn dơ chân dộng mạnh vào cửa, tôi bảo chúng hạ cửa kiếng xuống kẻo
ngột ngạt. Bỉ ổi nhất là có hai tên công an mật vụ nói tiếng Việt chính gốc,
chúng đến bên xe tra hỏi tôi còn giấu giếm tiền bạc gì trong người không? Tôi
chẳng thèm trả lời. Bọn chúng vừa hỏi vừa sờ mó khắp cả mình mẩy tôi để lục
soát. Túi quần tôi chỉ còn vỏn vẹn 500 đồng ria (tương đương với 2000 đồng Việt
Nam), chẳng có giá trị gì nên chúng không lấy; còn thẻ tỵ nạn và hết thảy tiền
bạc trong ví thì đã bị trấn lột một cách trắng trợn, khi bọn chúng tổ chức bắt
cóc tôi ngay phía trước chợ Orussey.
Mấy tên công an mật vụ cộng sản Việt Nam mang cặp hồ sơ đi vào phòng làm việc cách chỗ xe tôi ngồi không xa lắm,
các viên chức công an Campuchia đi đi lại lại ra vẻ tất bật. Tôi không hiểu bên
trong họ làm việc với nhau thế nào, mà lại để tôi ngồi ngoài xe chừng một tiếng
rưỡi đồng hồ. Sau đó, công an Campuchia dẫn tôi vào một gian phòng dùng làm nơi
hội họp, chính giữa có treo bức huy hiệu đặc biệt của ngành công an Campuchia
được vẽ lớn. Một dãy bàn dài và hai dãy ghế kê dọc chiếm gần hết gian phòng.
Một người nào đó mang vào phòng chiếc quạt máy, cắm điện rồi bước ra. Nửa giờ
sau, một người công an Campuchia râu ria xồm xoàm mang vào đưa cho tôi một ổ
bánh mì và một chai nước khoáng. Người ấy ra chiều tử tế, với giọng nói tiếng
Việt lơ lớ, ông ta mời tôi ăn bánh mì và hỏi tôi có cần gì nữa không? Tôi cảm
ơn và hỏi mượn chiếc gối; một lát sau, người ấy mang chiếc gối vào đưa cho tôi.
Người tôi mệt lả, ráng nhai
ngấu nghiến mẩu bánh mì rồi đặt lưng xuống nền nhà, không có chiếu, chẳng có
mùng màn, đàn muỗi vo ve thi nhau hút máu. Tôi vẫn bị còng tay suốt đêm dài,
trăn qua trở lại trong giấc ngủ chập chờn. Ngoài cửa, văng vẳng tiếng nói
chuyện của mấy người canh gác, thỉnh thoảng họ lại hé cửa trông chừng tôi.
22
Bị cưỡng bức hồi hương
Khoảng 4 giờ sáng hôm sau,
thứ sáu ngày 26 tháng 7 năm 2002, một người mở cửa ra hiệu cho tôi rời khỏi căn
phòng. Tôi không quên cầm theo chai nước khoáng trên đôi tay bị còng rồi bước
ra sân. Chiếc xe mang biển số ++2-2475 của bọn bắt cóc đêm qua đã đậu sẵn. Một
gã công an mật vụ Việt Nam mang cặp hồ sơ giấy tờ ngồi bên phải tôi; một gã
ngồi ghế phía trước bên cạnh tài xế, tôi nhận dạng chính là tên bắt cóc to cao
dang tay sau lưng và đẩy tôi lên xe vào chiều tối hôm qua tại đường số 185, khu
chợ Orussey. Ngồi kèm phía bên trái và sau lưng tôi là hai tên công an người
Campuchia, với khẩu súng ngắn cộm lên trong túi quần ngay đầu gối để lòi ra
báng súng.
Xe chuyển bánh rời đồn công
an, qua cầu Saigon, hướng về biên giới Việt Nam. Khu chợ bên kia cầu giờ này đã
nườm nượp người mua kẻ bán, huyên náo nhộn nhịp. Ngang qua những xóm nhà vùng
ngoại ô, giờ này vẫn còn đóng cửa im lìm. Một vài đóm lửa chập chờn bên kia
cánh đồng khi mờ khi tỏ. Ánh trăng khuya lấp loáng trên mặt hồ sen ven đường,
thấp thoáng bóng người chèo xuồng hái hoa bẻ ngó, tôi sực nhớ mang máng hôm qua
là đêm 16 trăng tròn, tháng 6 Âm lịch năm Nhâm Ngọ.
Xe chạy dọc những đoạn đường
đất đá gồ ghề, hất tung bụi mù để lại phía sau. Ðó đây lác đác vài ba người,
đầu đội thúng mủng đem hàng ra chợ bán. Chẳng mấy chốc trời tờ mờ sáng, xe cũng
vừa đến bến phà Neak Loeung (Hố Lương), được biết cộng đồng người Việt sinh
sống ở đây không ít.
Mọi người chờ đợi chuyến phà
ngang qua dòng sông Mê-Kông đôi bờ xa tít. Tiếng rao lanh lảnh của những cô bán
hàng tay xách nách mang; mấy đứa trẻ bán dạo theo gót khách hàng và nài nỉ
khách mua cho bằng được, tạo thành một bầu không khí náo nhiệt hẳn lên. Tôi
đoán chừng toán công an này sẽ áp giải tôi đến cửa khẩu biên giới Mộc Bài,
huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.
Trên bờ, mấy chiếc xe đò nối
đuôi nhau chờ phà cập bến. Gã công an mật vụ Việt Nam vội vàng mở cửa xuống xe,
y nhanh chân đến cổng gác rồi nói mấy câu với nhân viên điều hành, hình như xin
quyền ưu tiên qua phà thì phải. Bỗng nghe tiếng còi phà hú lên báo hiệu chuyến
phà từ bên kia bờ cập bến, mọi người và xe cộ lần lượt lên bờ.
Gã tài xế trẻ người Campuchia phóng xe
vượt hẳn lên các xe phía trước, rồi chầm chậm xuống phà. Ðến khi đã chật ních
hành khách và xe cộ, chuyến phà nhổ neo rời bến.
Một cô bé tay nách mủng xôi đậu đen còn
nóng hổi, mùi nếp thơm bốc lên, tên công an Việt Nam ngồi bên cạnh tôi bèn mua
mấy gói xôi đưa cho mấy tên công an Campuchia và tôi lót dạ. Chuyến phà từ từ
cập bến bên kia bờ, khi ánh dương bắt đầu ló dạng.
Xe chạy chậm vì có những đoạn đường quá
xấu. Còn chừng vài trăm mét nữa là đến cửa khẩu biên giới Campuchia-Việt Nam,
bọn chúng cho xe ghé vào một cơ quan lớn tọa lạc bên phải lề đường, đậu dưới
những tàn cây rợp bóng trong sân. Mấy tên công an Campuchia xuống xe đứng ngoài
canh giữ tôi, chúng phì phà khói thuốc. Hai gã người Việt đi vào phòng liên hệ
với các viên chức ở cơ quan này. Tôi đoán chừng đây là đồn biên phòng
Campuchia, có lẽ bọn công an mật vụ làm thủ tục lần cuối với nước láng giềng
này, trước khi đưa tôi sang cửa khẩu biên giới vào lãnh thổ Việt Nam.
Còn lại một mình tôi trên xe, cổ tay đang
bị còng sưng tấy lên, mặt mày bầm tím vì bị bọn bắt cóc hành hung, lại thêm đêm
hôm qua mất ngủ, người tôi mệt nhoài, tôi bèn đặt lưng xuống ghế xe rồi thiếp
đi lúc nào không hay.
Ðang giấc ngủ ngon, thình lình có người mở
cửa xe đánh thức, tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao, ánh nắng gay gắt bắt
đầu xuyên qua kẻ lá. Gã công an người Campuchia lấy xâu chìa khóa nhỏ mở chiếc
còng số 8 trên tay tôi. Mọi người lên xe rời khỏi cơ quan này, tính ra xe tạm
dừng ở đây khoảng hơn một tiếng đồng hồ.
Xe chạy một quãng thì qua cửa khẩu Mộc
Bài, thuộc vùng đất Việt Nam. Dưới bóng đại thụ im mát bên vệ đường, năm bảy
viên chức bộ Công an đứng chờ sẵn, hai bên tay bắt mặt mừng, đon đả chào hỏi.
Có vài gã công an tôi quen mặt, bởi đã có lần tôi gặp họ trong một buổi thẩm
cung nào đó tại trại giam vào những năm trước đây. Chúng chuyển tôi sang chiếc
xe mang biển số tỉnh Tây Ninh, rồi còng tay tôi lại; một tên công an trên xe
trao cho tôi chiếc kính màu được dán phủ kín bằng băng keo đen, tên này buộc
tôi đeo kính vào mắt. Tôi hiểu ra ngay, không phải chúng nó sợ tôi biết đường
sá hay ngõ ngách khi tống tôi vào một trại giam nào đó, mà chính là để cho mọi
người đi lại trên đường phố, nhất là vào khu vực nội thành, dù ai đó có quen
biết với tôi đi chăng nữa, người ấy cũng khó lòng nhận diện ra tôi.
Vào giờ này, những tên mật vụ vùng Cửu
Long coi như đã hoàn thành nhiệm vụ bắt cóc mà chính quyền cộng sản Việt Nam
giao phó hoặc thuê mướn, bọn chúng bèn quày xe trở lại Campuchia. Tôi nghĩ có
lẽ nay mai, những tên công an mật vụ này sẽ nhận được giấy khen thưởng, hoặc
giả tiền thù lao của tập đoàn độc tài toàn trị tại Hà Nội.
Thi sĩ Đức Tâm Phạm Hoài Việt đã cảm tác
bài thơ về vụ việc bắt cóc này:
Lương
thức Thích Trí Lực
Giữa
khuya làm chuyện mù tăm,
Mã
ngưu phối hợp rắp tâm hại người.
Thích
Trí Lực ! Hỡi thầy ơi !
Lương
thức trí đạo cao vời,thầy đâu ?
Ngục
tù hay chốn rừng sâu
Đêm
đen đuốc tuệ nhiệm mầu xét soi
Từ
nghĩa đạo, thầy vì đời
Lương
tri nhân loại: kịp thời cản ngăn !
23
Biệt tăm
Con đường xuyên Á từ cửa khẩu Mộc Bài đến
ngã tư An Sương đang được sửa sang và mở rộng, có nhiều đoạn đường đất đá lởm
chởm khó đi. Mãi đến giữa trưa, toán công an áp giải mới đưa tôi về đến trại
giam B34/A24 - Cơ quan an ninh điều tra, bộ Công an - tọa lạc tại số 237, đường
Nguyễn Văn Cừ, quận 1, Sài Gòn. Nếu tính luôn lần vượt biển bị bắt giam hai năm
tù ở tỉnh Tiền Giang vào năm 1981, thì nay là lần thứ tư tôi bước chân vào nhà
tù cộng sản, hầu như tôi chẳng hề nao núng trong lòng.
Chiếc xe chở tôi vừa đỗ giữa sân trại
giam, thì xe chở toán công an tiếp nhận tôi ở cửa khẩu Mộc Bài cũng vừa đến
nơi. Trời nắng gắt, ánh dương chói chang khó chịu, tôi hơi bị chóng mặt và nhức
đầu, có lẽ đi đường xa mệt nhọc. Vừa bước lên bậc thềm ở hành lang, tôi hất hàm
bảo tên công an áp giải:
- Hãy mở còng tay cho tôi.
Gã kia trả lời cộc lốc:
- Chờ chút đã.
Tôi nổi cáu, bèn lớn tiếng:
- Chờ đợi cái gì nữa, đã vào đến trại giam rồi, các ông còn sợ tôi trốn
đi đâu mà không mở còng.
Mấy người kia thấy vậy bèn ra
lệnh cho ông ấy mở chiếc còng số 8 trên tay tôi. Một nữ công an trại giam trong
khu nhà này đi ra nhận người, rồi ký vào biên bản giải giao bị can.
Viên thiếu tá Nguyễn Ðinh Hóa
đưa tôi vào phòng cung số 2, trong phòng có gắn thiết bị ghi hình. Ông ấy đặt
giữa bàn tấm bìa kẹp đủ thứ giấy tờ, có cả bức hình chân dung của tôi, ngoài
bìa ghi dòng chữ lớn: “Hồ sơ Thích Trí
Lực”. Qua các câu hỏi và đáp, một bản lý lịch đầy đủ chi tiết của tôi được
cán bộ điều tra này viết vào biên bản ghi lời khai.
Khoảng 3 giờ chiều, ông Hóa
dẫn tôi ra xe đậu sẵn ngoài sân, có vài người nữa cùng đi kèm. Họ đưa tôi đến
trụ sở công an phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Sài Gòn.
Tại phòng làm việc, tôi ngồi
chờ các người này viết biên bản khám xét. Ông Hóa lấy trong cặp ra một chiếc
ví, đúng là chiếc ví của tôi mà khi bị bắt cóc hôm qua, mấy tên ngồi sau rút
trong túi quần. Ông ấy mở ví lấy ra tấm thẻ chứng nhận quy chế tỵ nạn và chứng
minh nhân dân, còn tất cả tiền bạc xem như mất trắng. Tôi chắc chắn rằng, những
tên công an mật vụ bắt cóc tôi ở Campuchia đã bàn giao lại cho toán viên chức
Bộ Công an ở cửa khẩu biên giới Mộc Bài vào sáng hôm nay. Như thế, đêm hôm qua,
khi bắt cóc tôi lên xe, bọn công an mật vụ vùng Cửu Long thừa biết tôi được
Liên Hiệp Quốc bảo vệ quyền tỵ nạn chính trị. Nay cơ quan An ninh điều tra bộ
Công an lại lập biên bản khám xét tại trụ sở công an phường này chiều ngày 26
tháng 7 năm 2002, thu giữ của tôi một thẻ tỵ nạn mang số 610 IC, do bà
Elizabeth Kirton - Trưởng Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh - ký ngày
28 tháng 6 năm 2002, công nhận quyền tỵ nạn.
Lập xong biên bản, tiếp đó
thiếu tá Nguyễn Ðinh Hóa mời tôi đứng dậy để nghe tuyên đọc cái gọi là lệnh bắt
khẩn cấp. Tôi có nêu thắc mắc với ông ấy, rằng tôi bị bắt ngày 25 tháng 7 năm
2002 ở Campuchia, chứ không phải tôi bị bắt ngày 26 tháng 7 năm 2002 tại biên giới.
Ông ấy trả lời cho xong chuyện:
- Ai bắt anh ở Campuchia, ở đây chúng tôi
không biết, tôi chỉ biết bắt anh sáng nay, nhằm ngày 26 tháng 7 mà thôi.
Tôi nghĩ, chuyện này mình
tranh luận cũng chẳng đi đến đâu, họ chỉ việc cãi chày cãi cối là xong, bởi thế
tôi bỏ qua.
Mọi người chở tôi trở lại
trại giam B34, các cán bộ y tế vào kiểm tra sức khỏe và làm thủ tục lưu ký. Bị
can phải gửi hết thảy tiền bạc, tư trang và các vật dụng không được phép mang
vào buồng giam. Từ Phnom Penh về đây, tôi chỉ có vỏn vẹn một bộ đồ mặc trên
người, đi chân đất và chẳng có một đồng dính túi. Cán bộ điều tra thông báo,
mỗi tháng tôi được cấp phát 96.000 đồng (tương đương 6,5 đô-la Mỹ), với số tiền
này, cán bộ phụ trách mua mì gói và một ít đồ ăn gửi vào.
Tôi bị giam ở buồng đối sách (đối tượng chính
sách) số 1, thuộc khu tạm giữ, đối diện là dãy phòng cung. Bên trong là phòng
làm việc của đội quản lý bị can. Sở dĩ tôi không gọi là cán bộ quản giáo (quản
lý và giáo dục) như ở các trại giam thường gọi, bởi vì những người bị tạm giam
ở đây đang trong thời kỳ điều tra xét hỏi, không thể xem như là phạm nhân khi
chưa có phán quyết của tòa án, thì có tội gì đâu mà cần phải giáo dục.
Mặc dầu trong người không
được khỏe, tôi cũng gắng lau chùi sạch sẽ căn phòng, bởi không có người ở nên
bụi bặm đóng lớp. Họ đưa thêm một người nữa vào ở chung với tôi, do từng trải
cảnh tù đày, tôi hết sức dè dặt khi nói chuyện, biết đâu người này sẽ báo cáo
lại mọi chuyện của tôi, giúp cho công tác điều tra.
Cơ quan An ninh điều tra bộ
Công an (A24) phối hợp với An ninh tôn giáo (A38) - sau này đổi thành A41- cùng
thẩm vấn tôi. Họ tống đạt cho tôi quyết định khởi tố bị can về tội danh “Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền
nhân dân ”, theo điều 91, luật Hình sự; đồng thời ra lệnh tạm giam bốn
tháng.
Cuối tháng 8 năm 2002, có lẽ
cơ quan An ninh điều tra phát hiện ra sự vô lý của họ, khi họ lập biên bản khám
xét tôi tại trụ sở công an phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, nên họ hủy biên bản
này. Hai cán bộ điều tra chính là Nguyễn Ðinh Hóa (A24) và Hoàng Thanh Phúc
(A41) mang đến phòng cung một biên bản đã viết sẵn, nội dung hoàn toàn trái sự
thật, rằng tôi bị khám xét và bị bắt tại cửa khẩu Mộc Bài, huyện Bến Cầu, tỉnh
Tây Ninh vào ngày 26 tháng 7 năm 2002. Người làm chứng cũng là một gã công an
khác có mặt tại phòng hỏi cung để ký tên, thật đúng là một trò hề xảo trá. Ðáng
lý tôi không ký vào biên bản này, nhưng khi suy nghĩ lại, đằng nào mình cũng đã
bị biệt giam gần một tháng nay, bọn cộng sản sẽ không bao giờ thả mình ra một
sớm một chiều, sau này khi ra tòa hẵng phơi bày sự thật.
Suốt thời gian thẩm cung, tôi
luôn luôn khẳng định rằng, việc tôi ra đi lánh nạn là để có cơ hội tiếp tục
phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở hải ngoại, bởi vì trong nước,
Giáo hội chúng tôi bị chính quyền cộng sản của các ông đặt ra ngoài vòng pháp
luật và đàn áp thô bạo.
Bằng lối chứng minh bắt cầu
theo nghiệp vụ điều tra kiểu cộng sản, bọn chóp bu A24 cho rằng, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất là một tổ chức chống phá nhà nước, nên họ quy chụp tôi
theo tội danh “Trốn đi nước ngoài nhằm
chống chính quyền nhân dân”. Với tội danh này, theo luật Hình sự, tôi có
thể bị xử tù từ ba năm cho đến chung thân.
Ngày lại tháng qua, mặc dầu
bị giam cầm nghiêm ngặt trong chốn lao lung cùng khổ, thế nhưng, tinh thần tôi
vẫn luôn luôn lạc quan với một niềm hy vọng rằng, Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn và các tổ chức bảo vệ nhân quyền,
như Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền, Tổ
chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người
Việt Nam… sẽ không bao giờ bỏ rơi tôi, khi hay tin tôi bị mất tích ở Cam Bốt.
Hà Nội có trách nhiệm phải trả lời trước công luận quốc tế về việc bắt cóc này,
kể cả Nam Vang cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Tôi ở buồng đối sách gần hết
hai lệnh tạm giam tám tháng, công an trại giam vâng lệnh an ninh điều tra A24
thay đổi cả thảy ba người nhảy xô vào ở chung với tôi. Trước đây họ đều là đảng
viên Cộng sản, hai viên công an và một thượng tá quân đội, chẳng một ai dám
nhận lời chuyển tin tôi ra ngoài khi họ được thăm gặp gia đình.
Trung tuần tháng giêng Âm
lịch năm Quý Mùi (nhằm ngày 17 tháng 2 năm 2003), nhân chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án Trương Văn Cam vào ngày 25 tháng 2 năm 2003 sắp đến, trại giam chuyển tôi
và một số bị can khác tập trung xuống nhà C, tôi được biết nhà sử học Trần Khuê
ở gần buồng giam với tôi. Trần Khuê là một nhân vật bất đồng chính kiến, ông ấy
bị bắt giam vì đã mạnh dạn tố cáo đảng Cộng sản Việt Nam nhượng đất ở biên giới
phía Bắc cho Trung Quốc. Ðược biết, ông tuyệt thực cả tháng nay để phản đối
việc bắt giam phi pháp của nhà cầm quyền cộng sản.
Tôi bị giam chung với ông Hồ
Trần Lập, nguyên trung tá quân đội, đảng viên Cộng sản, mọi người thường gọi
ông là “Lập chảo”. Ông ấy bị bắt giam do lắp đặt một trạm ăng-ten Parabol để
thu sóng điện thoại từ vệ tinh viễn thông.
Trại giam B34 nguyên là tổng
nha Cảnh sát quốc gia thời chế độ cũ. Khu nhà C tọa lạc sát đường Nguyễn Văn
Cừ, cách cổng chính số 237 chừng năm chục mét về phía tay mặt từ ngoài nhìn
vào, mái nhà lợp tôn, tường quét vôi màu vàng. Ðây là một khu nhà giam phục vụ
cho việc ép cung hoặc kỷ luật bị can. Hai cánh cửa sắt độc nhất đi vào nhà giam
này thường xuyên đóng bịt bùng, ngoại trừ lúc công an giải người đi hỏi cung
hoặc đưa cơm nước. Bên trong có cả thảy mười hai buồng giam, mỗi buồng có diện
tích không đầy chín mét vuông. Cửa mỗi buồng giam nguyên trước đây là cửa song
sắt, nay chế độ cộng sản hàn bít thêm hai tấm sắt dày. Trên vách tường cao, mặt
trước và sau, trước đây đều có chấn song thông gió rộng lớn, nay chế độ cộng
sản lại trám bít, hãy còn để lại dấu vết rõ ràng, chỉ chừa một hai khe nhỏ
thông khí không đáng kể, một lỗ vuông chừng ba tấc để đưa thức ăn và nước uống
vào. Không khí buồng giam hết sức ngột ngạt, nhất là những tháng nắng nóng. Hai
cánh cửa sắt bên ngoài mỗi lần được đóng khóa lại, chúng tôi thường gọi đùa là
“úp vung”, thì mọi người bị giam bên trong chẳng khác nào ở trong lò lửa.
Mỗi buổi sáng thức giấc, tôi
nhìn lên khe vách, thấy có ánh mờ nhạt thì đoán biết ngoài trời đã sáng tỏ, khi
đó mọi người gọi nhau hỏi thăm sức khỏe. Bên ngoài hai dãy phòng giam đều có
đặt máy quay hình. Trong mỗi phòng, thiết bị nghe lén và ghi hình được ngụy
trang bằng một đèn điện gắn vào vách tường, mọi sinh hoạt và trò chuyện trong
buồng giam đều bị kiểm soát nhờ thiết bị này.
Cả tháng nay, hầu như tôi
chưa hề bước chân ra khỏi cửa buồng giam, ngày ngày giam mình trong bốn bức tường
nghiêm ngặt. Xe cộ lưu thông trên đường Nguyễn Văn Cừ ầm ĩ suốt ngày lẫn đêm,
chẳng khi nào có một khoảnh khắc yên tĩnh, tiếng máy xe lẫn tiếng còi tựa hồ
tra tấn bên tai.
Ngày 12 tháng 3 năm 2003,
buổi sáng trời nắng dịu, tôi được ra ngồi dưới bóng râm để hớt tóc, lâu lắm
rồi, nay tôi mới được bước chân ra khỏi cửa. Hớt tóc vừa xong thì cán bộ trại
giam gọi đi làm việc. Ra đến phòng cung, ông Nguyễn Ðinh Hóa tống đạt cho tôi
cái gọi là bản kết luận điều tra, do thượng tá Lý Anh Quán, phó thủ trưởng cơ
quan An ninh điều tra ký tên. Theo bản văn này, hồ sơ vụ án được chuyển sang
viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị truy tố tôi ra tòa án.
Theo luật Tố tụng hình sự,
nay tôi được quyền gặp thân nhân, tôi bèn báo với cán bộ quản lý, xin giấy và
mượn bút để viết đơn. Hai tuần lễ sau, ngày 25 tháng 3 năm 2003, viện Kiểm sát
nhân dân tối cao tống đạt cho tôi cái gọi là cáo trạng. Tôi có hỏi lá đơn đã
gửi trại giam nhờ chuyển đến viện Kiểm sát, đề nghị thông báo cho thân nhân tôi
biết, tôi hiện đang bị bắt giam ở B34, đã tám tháng rồi mà thân nhân vẫn chưa
hay tin, biệt vô âm tín. Nghe tôi hỏi, ông ấy tỏ vẻ lúng túng và trả lời, ông
sẽ hỏi lại ông Hóa là cán bộ điều tra. Như vậy, đủ chứng tỏ rằng, những đơn từ
của tôi đã bị bọn chúng ém nhẹm.
24
Dã tâm cộng sản
Tháng 5 năm 2003, thời tiết ở
Sài Gòn bắt đầu có những cơn mưa đầu mùa, đem lại cho người tù một cảm giác
tương đối dễ chịu hơn. Nhiều đêm hôm khuya khoắt, khi âm thanh xe cộ bên ngoài
đại lộ thưa dần, bỗng có tiếng chìa khóa lẻng kẻng, “nắp vung” được mở ra, mọi
người nghe chừng, có người nào đó bước chân vào nhà giam. Cứ mỗi tối đến, chúng
tôi đều gọi nhau trò chuyện. Một hôm, mọi người lắng nghe tiếng ai oán được cất
lên từ một căn buồng biệt giam vọng lại:
Ðảng
là mẹ, bác là cha,
Ðến
khi bác chết, đảng ta góa chồng.
Ðảng
ơi mày có biết không?
Thạch
Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều.
Tôi biết anh bạn này vừa mới bị bắt vào
ngày hôm kia, đang ở gần buồng giam với tôi. Thoạt đầu, anh ta còn dè dặt chưa dám
nói chuyện, nay thấy mọi người chuyện trò vui vẻ, nên mới dám mở lời. Nghe nhắc
đến Thạch Sanh và Lý Thông trong kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam, tôi suy đoán
rằng, có lẽ anh bạn này đang bị những Lý Thông cộng sản thời nay ám hại. Chắc
hẳn quý bạn đọc ai cũng biết câu chuyện cổ này từ thuở ấu thơ, rõ ràng bản chất
cộng sản y chang con người Lý Thông, nghĩa là cùng một phường lường láo tráo
trở, lươn lẹo dối trá, hiểm ác gian manh, điêu ngoa xảo quyệt…
Giữa thời buổi kinh tế thị trường, thêm
cái đuôi theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nào là giám đốc, hải quan; nào là
biên phòng, thuế vụ; giờ trước là đảng viên cao cấp, năm mươi năm tuổi đảng có
dư; phút sau bèn trở thành phó thường dân dự khuyết, ngày ngày bị điều tra xét
hỏi, đem tấm thân vào chốn lao lung. Khi còn ở rừng thiêng nước độc, gia tài
chỉ vỏn vẹn một chiếc ba lô, thì tình đồng chí khăng khít đậm đà, sống chết có
nhau. Nay được lầu cao cửa rộng, xe cộ nghênh ngang, ai nấy đều trở thành những
nhà tư sản đỏ, cớ sao lại đấu đá tàn tệ với nhau, chẳng có chút nghĩa tình.
Tôi bèn bắt chuyện làm quen với anh bạn
ấy, dù chưa hề trông thấy mặt nhau:
-
Anh bạn mới vào ơi, anh có khỏe không? Ở đây chúng tôi gọi nhau bằng số, tôi
được anh em đặt tên là Ba Nhỏ, bị bọn nó bắt cóc ở Campuchia đem về đây nhốt
kỹ. Nay chúng tôi đặt tên gọi cho anh là Tư. Anh Tư hãy cố gắng lên, mong một
ngày gần đây, anh sẽ được thân oan và sớm ra khỏi cảnh tù này.
Anh Tư trả lời trong tiếng nghẹn ngào:
-
Cảm ơn anh Ba Nhỏ và các anh em ở đây đã có lời an ủi tôi. Nhưng ai có thể làm
sáng tỏ nỗi oan khuất cho tôi, khi mà bọn trùm cộng sản độc tài toàn trị ở Hà
Nội tự tung tự tác, chúng nó ban hành những chính sách kinh tế: “Sáng đúng
chiều sai, sáng mai lại đúng; hỏi ra thì lúng túng, không biết đúng hay sai”.
Có tiếng Ba Lớn tiếp lời:
-
Bởi vì chúng nó chỉ là một phường: “Lưu manh giả danh trí thức, ăn hại đái
khai, học lớp hai khai lớp mười một ”.
Mọi người trong nhà giam khu C nảy giờ
lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, ai nấy đều cười rộ.
Tuy mới quen nhau, nhưng anh Tư và tôi trở
nên thân mật. Tối đến, chúng tôi thường đứng ở lỗ vuông đưa cơm để trò chuyện
với nhau. Anh ấy tự giới thiệu, anh nguyên là đại tá xuất thân từ Tổng cục 2 Bộ
Quốc phòng, đã từng hoạt động trong ngành tình báo nhiều năm, nay được chuyển
qua công tác làm trưởng đồn biên phòng ở biên giới phía Bắc. Anh ấy cho tôi
biết, do anh bị tình nghi móc nối với Tổng cục Hải quan và thương nhân để nhập
hàng lậu thuế từ Trung Quốc về Việt Nam, nên bị tạm giam để điều tra. Năm
ngoái, anh cũng bị tạm giam ở miền Bắc một tháng về vụ thông đồng với giám đốc
công ty nào đó, họ làm hồ sơ xuất khẩu giả để moi tiền nhà nước, theo chính
sách hoàn thuế giá trị gia tăng. Do cơ quan điều tra không đủ chứng cứ buộc tội
nên chúng đành phải thả anh ấy ra.
Tự nhiên tôi và anh Tư trở thành đôi bạn
tâm đắc. Tôi thường kể cho anh ấy nghe về việc chính quyền cộng sản đang tâm
đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất một cách trắng trợn. Từ sự kiện
tại chùa Linh Mụ vào năm 1992, mở đầu công cuộc hoạt động phục hồi Giáo hội
truyền thống, cho đến những tình cảnh nghiệt ngã mà Giáo hội này đã và đang
gánh chịu dưới chế độ cộng sản bạo tàn.
Tôi thường xuyên nhắc nhở đến những hoạt
động của ông Võ Văn Ái và nữ sĩ Ỷ Lan trong Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt
Nam thuộc cơ sở Quê Mẹ ở Paris, đồng thời ông ấy kiêm nhiệm Giám đốc Phòng
Thông tin Phật giáo Quốc tế.
Thế rồi, vào một buổi chiều chủ nhật nọ,
anh Tư cầm lòng không đậu, bèn tiết lộ cho tôi biết toàn bộ nội dung tài liệu
và hồ sơ tối mật của Tổng cục 2 bộ Quốc phòng mà đã có
lần anh đọc được ở tàng thư, khi ấy anh là một thành viên của tổ hành động. Cơ
quan tình báo đầu não này đã nhiều lần lên phương án và kế hoạch tổ chức ám sát
ông Võ Văn Ái, bởi lẽ chính quyền cộng sản Việt Nam đã xếp ông Võ Văn Ái vào sổ
bìa đen những kẻ thù không đội trời chung của đảng Cộng sản, thế nhưng sự việc
bất thành.
Anh Tư tỏ ra hết sức chân tình khi anh
tiết lộ điều tối mật này. Dường như anh ấy đã trút hết nỗi lòng cho tôi, mà
theo như lời anh nói, để cho thanh thản tâm hồn và anh thật sự hồi tâm hướng
thiện.
Suốt nhiều đêm liền, tôi không sao chợp
mắt khi nghĩ đến cư sĩ hộ pháp Võ Văn Ái, một Phật tử trung kiên với Giáo hội
truyền thống, luôn luôn đứng về phía chính nghĩa để đập nát gian tà. Quả thật,
đảng Cộng sản độc tài toàn trị đương quyền không từ bỏ một dã tâm hay thủ đoạn
gian ác nào đối với những người đối lập chính trị. Tôi mong sao điều bất hạnh
ấy đừng bao giờ xảy ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét